BBT. Sau khi www.vncold.vn đăng tải một số thông tin về đề án ''Quy hoạch thủy lợi chống ngập úng khu vực TPHCM'', chúng tôi đã nhận được nhiều bài góp ý và thảo luận với các tác giả đề án. Xin giới thiệu dưới đây bài viết rất công phu của ThS.KSCC. Vũ Văn Thịnh, chuyên gia lão thành về thủy văn & qui hoạch nguồn nước.
......Ngày 28/8/2008 nhân lễ kỷ niệm 63 năm ngày truyền thống của ngành thủy lợi tại Hà Nội, được nghe báo cáo về ‘’Quy hoạch chống ngập úng cho TPHCM’’ do TS Trịnh Công Vấn , thành viên TNC , tổng giám đốc công ty tư vấn thủy lợi 2 (HEC2) trình bầy . Điều thú vị là thành viên của TNC là những người tôi đã có quan hệ công tác từ nhiều năm trước nên tò mò muốn tìm hiểu.
Rất tiếc là trên www.vncold.vn không có bản báo cáo chính và các phụ lục mà chỉ có báo cáo tóm tắt và một số ý kiến phản biện. Với tư cách là đồng nghiệp của các tác giả bản dự án tôi muốn tham gia vài ý kiến, đặc biệt trong lĩnh vực thủy văn, thủy lực, điều tiết các hồ thượng nguồn tham gia chống lũ hạ du ...hy vọng đóng góp được chút gì đó dù chỉ là định tính cho TNC tham khảo thêm nhằm gỡ rối cho bài toán khó khăn, phức tạp này .
Tôi đồng ý với ý kiến của GS Nguyễn Sinh Huy ,- tổ trưởng TNC là "TP muốn phát triển ra biển, tức xuống vùng đầm lầy; như vậy, muốn chống ngập úng, chắc chắn phải làm cho được 3 nhiệm vụ: Kiểm soát lũ, kiểm soát triều và tiêu thoát nước mưa’’.
Tôi thấy ý kiến trên là đúng nhưng có việc như là vượt quá tầm kiểm soát của dự án ( Kiểm soát lũ) , có việc hình như là chưa đủ ( hồ điều hòa, bơm...), có việc hình như nhấn mạnh quá mức ( biến đổi khí hậu).
Xin có vài ý kiến tham gia :
1) Về nguyên nhân gây ngập úng
1.1) Với hiện trạng trong quá trình phát triển thành phố đã cho san lấp các ao hồ và vùng bán ngập ở ngoại vi để cho ra đời 15 khu công nghiệp cùng hàng trăm khu đô thị mới đã làm giảm sự điều tiết tự nhiên của bề mặt lưu vực nên mưa tập trung thành dòng chảy ngay. Sự phát triển này làm mất cân bằng tự nhiên , nước không được trữ lại ở nơi trũng chờ khi triều thấp để tiêu nên ‘’ nạn úng ngập ngày càng tăng là điều dễ hiểu’’. Ngay trong mùa khô, chỉ cần triều cường mạnh ( triều thiên văn), kết hợp với gió chướng là đã gây ngập úng ở những vùng đất thấp, việc tiêu nước ngày càng khó. Phải chăng đó là cái giá phải trả do con người tác động vào thiên nhiên gây ra . Qua tài liệu theo dõi mực nước triều trong 10 năm tại Phú An và Vũng Tầu và tài liệu quan trắc về mưa dài năm tại Tân Sơn Nhất thấy cao độ thủy triều, thời gian truyền triều , lượng mưa rào tuy có có xu thế tăng nhưng không đáng kể phù hợp với cảnh báo của IPPC là trong 10 năm qua tuy mưa rào và triều có xu thế tăng nhưng không đáng kể.Lũ thì được giảm do các công trình ở thượng nguồn điều tiết ( trừ trường hợp xả lũ thiết kế). Nhấn mạnh nguyên nhân biến đổi khí hậu với hiện trạng ngập úng như hiện nay là chưa chưa trúng. Nó đúng và cần có đầu tư nghiên cứu nghiêm túc ngay từ bây giờ để có chiến lược phòng chống trong tương lai là việc hết sức cần thiết.
1.2) Hệ thống cơ sở hạ tấng tiêu nước mưa , nước thải ( kênh, rạch, cống ...) xuống cấp và chưa đáp ứng được yêu cầu với tốc độ phát triển đô thị và dân số quá nhanh ...
- Hệ kênh rạch bị san lấp, khả năng tiêu thoát càng ngày càng giảm, dọc theo các kênh tiêu hình thành ra các vùng giáp nước mới .
-Khẩu độ cống quá nhỏ so với yêu cầu, Qtmax lớn gấp nhiều lần và xuất hiện sớm hơn.
1.3) Quy hoach tiêu nước đô thị thiếu đồng bộ , thiếu sự phối hợp giữa các ngành ( Quy hoạch đô thị kiến trúc, giao thông công chính, thủy lợi...còn tách rời nhau) chưa hoàn chỉnh , chưa phù hợp với địa hình tự nhiên, chưa dự báo được đúng quá trình đô thị hóa ...
Tóm tắt lại có ba nguyên nhân gây tình trạng ngập úng đô thị nói chung, và đối với TP.HCM nói riêng:
* Lượng nước cần phải tiêu thoát.
* Hệ thống tiêu thoát nước và khả năng tiêu thoát:
* Chế độ dòng chảy trên sông và kênh rạch
Các nguyên nhân trên có liên quan chặt chẽ với nhau cần phân tích, tính toán xác định riêng từng nguyên nhân một, cũng như tổ hợp bất lợi của cả ba nguyên nhân gây ra ngập úng.
2) Về tiêu chuẩn thiết kế
Tần suất lũ thiết kế cho khu đô thị TP.HCM TNC lấy bằng 0,5%( với các trường hợp lũ khác nhau), tổ hợp với triều năm 2000, ứng với bão cấp 11, nước dâng là 0,7m...có gì đó bất ổn , thiên lớn , cần xem lại có phù hợp với các tiêu chuẩn hiện hành không?
Tiêu chuẩn thiết là căn cứ pháp lý, là các thông số kinh tế ,kỹ thuật quan trọng để xác định quy mô công trình do đó cần xác định tần suất thiết kế của mưa rào ( lượng mưa, dạng mưa, thời gian mưa…) ,tần suất tổ hợp của triều ( đỉnh, chân, dạng, thời gian…),mực nước dâng, tần suất lũ khi các công trình thượng nguồn (thủy lợi, thủy điện) tham gia cắt lũ hạ du, quy trình vận hành liên hồ… Các tiêu chuẩn này phải phù hợp với các quy phạm hiện hành , nếu thay đổi phải được các cấp có thẩm quyền phê duyệt . Những vấn đề còn thiếu quy định như ‘’quy phạm về tính toàn thủy văn ở vùng triều’’ cần phải nghiên cứu thấu đáo và xin ý kiến các cấp có thẩm quyền để quyết định không thể tùy tiện được. Cần chọn một số dạng mưa, triều, lũ... điển hình đại diện cho các tình huống như úng ngập do mưa, do triều, do lũ hoặc do tổ hợp mưa gập triều, do mưa gập lũ, do mưa gập cả triều và lũ để tính toán, phân tích, so chọn.
Ví dụ chọn tần suất thiết kế:
2.1) Chọn tần suất mưa là P= 5~10%.
2.2) Chọn nhiều mô hình triều tương ứng với thời gian mưa hoặc triều có các đặc trưng Hđ, Hc của triều cao theo tần suất tổ hợp P=10~25% ,mô hình triều điển hình cho các tổ hợp để thu phóng .
2.3) Chọn mực nước dâng tương ứng của các mô hình triều đã chọn
3) Tiêu chuẩn chống lũ các hồ thượng nguồn
Các hồ chứa trên thượng nguồn ( trừ Dầu Tiếng) không bố trí dung tích phòng lũ cho hạ du nên việc chống lũ hạ du là không chủ động . Thông thường tiêu chuẩn chống lũ cho hạ du nhỏ hơn nhiều so với tiêu chuẩn chống lũ thiết kế. Tiêu chuẩn chống lũ hạ du chọn là 200 năm là không phù hợp và quá lớn. ( Chống lũ cho sông Hồng khi đã có TB+HB+TQ với trên 6 tỷ m3 được giành cho chống lũ cũng chỉ chống được với N= 250 năm) Giải pháp chống úng ngập cho TPHCM với lũ có tần suất 0.5% vượt khỏi tầm kiểm soát của bài toán tiêu nước đô thị, là không khả thi. Nếu cần thiết thì tách riêng nhiệm vụ chống lũ cho TPHCM thành một dự án riêng.
4) Về các giải pháp
Không thể tách dự án tiêu nước mưa và nước thải của JICA với ‘’quy hoạch thủy lợi chống ngập úng khu vực TPHCM’’ của TNC là kiểm soát lũ, kiểm soát triều do triều cường, do lũ từ thượng lưu sông chính bằng biện pháp ‘’đê bao và cống ngăn triều’’.
4.1) Đê bao
Giải pháp chống úng ngập cho TPHCM không nên kỳ vọng quá cao vấn đề kiểm soát lũ. Trong điều kiện hiện nay các hồ không bố trí dung tích phòng lũ cho hạ du việc đặt ra vấn đề chống lũ hai du là không khả thi. Trước mắt chỉ nên gia cố và hoàn thiện thêm các đê bao đã có để chống lũ thấp .
4.2) Cống ngăn triều
Với hệ thống đê bao như quy hoạch do TNC đề nghị cần 12 cống ngăn triều trên tuyến đê bao (3 giai đoạn). Nếu không xét vấn đề lũ với P=0.5% thì 12 cống ngăn triều sẽ không tồn tại nữa . Thay vào đó có thể phân lại vùng tiêu nhỏ hơn và chọn các cống ngăn triều thích hợp trên cơ sở phối hợp với quy hoạch tiêu của JICA
4.3) Các giải pháp hỗ trợ :
1) Hồ điều tiết (như nhiều nghiên cứu trước đã đề cập tới) có tính toán thủy lực cụ thể để kiểm chứng.
2) Ở các khu quá trũng cần có giải pháp tiêu bằng động lực .
3) Giải pháp 5T: TTT + TNT+ TNĐ + TXR + TĐC một cách đồng bộ ( Theo Nguyễn Quang Đẩu). Trong đó :
TTT: Giải pháp thoát nước tổng thể theo quy hoạch TP. HCM
TNT: Giải pháp thông thoát, nạo vét thủy diện dòng chảy
TNĐ: Giải pháp tôn cao, nâng cấp nền đường trục đô thị
TXR: Giải pháp thu gom, xử lý rác thải, nước thải
TĐC: Giải pháp tái định cư, tái hoà nhập ở vùng ven đô thị
5) Về phương pháp tính tiêu nước đô thị
a) Theo phương pháp tính hệ số tiêu
Thông thường khi mưa một phần nước sẽ thấm xuống đất hoặc chảy vào các chỗ trũng, hồ điều tiết, số còn lại theo hệ thống thoát nước chẩy ra sông. Hệ số tiêu loại này thường chọn q=3~5l/s/ha. TP HCM do mặt bằng đã bêtông hóa nên khả năng thấm xuống đất gần như không có nên hệ số tiêu phải lớn hơn. Hệ số tiêu đô thị thường chọn lớn gấp trên 5 lần hệ số tiêu cho ruộng lúa và phải có cách tính riêng , Việc sử dụng mô hình lưu vực NAM để tính lưu lượng tiêu ở các cửa ra chung cho cả khu đô thị và khu nông nghiệp là không phù hợp và thiên lớn. Các công trình điều tiết ao, hồ, vùng, trũng, sông rạch có dung tích điều tiết tại cửa xả là Wc phải được xét trong tính toán. Trong vùng tiêu nước nếu không có điều kiện để xây dựng công trình điều tiết thì ngoài cửa xả có thể phải có trạm bơm hỗ trợ khi trời mưa lớn gặp triều cao.
b) Theo mô hình thủy lực
Việc tính tiêu nước cho đô thị của TNC còn có nhiều điểm chưa rõ nhất là khi khi chọn mô hình mưa tiêu theo tần suất ( thời đoạn mưa giờ, dạng mưa , ...) và tổ hợp với các yếu tố khác (triều, lũ, nước dâng...). Kết quả tính được mô phỏng ứng với trường hợp nào?, theo loại tổ hợp nào? có phù hợp với hiện trạng không? , sai số tính toán?
6) Về các trường hợp tính toán
Nếu chỉ xét 3 yếu tố thì đã có 7 tổ hớp xẩy ra . M, T, L, M+T, M+L, T+L, M+T+L. Trong mỗi tổ hợp lại có thể xảy ra nhiều tình huống khác nhau như:
-Trường hợp 1: trời bắt đầu mưa thì thuỷ triều xuống tới cao trình cho phép cửa xả
-Trường hợp 2: triều xuống tới mức thấp nhất thì trời bắt đầu mưa và khi triều vừa lên tới cao trình mà cửa xả không có khả năng tiêu tự chảy thì mưa đạt tới Qmax
-Trường hợp 3 : triều lên đến cao trình mà cửa xả không có khả năng tiêu tự chảy thì trời bắt đầu mưa và khi đạt tới đỉnh triều thì tại cửa xả cũng có Qmax
-Trường hợp 4: trời bắt đầu mưa thì triều đạt tới đỉnh
7) Về phân vùng : Các vùng tiêu được phân quá lớn không tách riêng tiêu cho đô thị với tiêu cho nông nghiệp, kết quả tính toán có thể thiên lớn. Mối quan hệ của 3 vùng theo TNC với 6 vùng của dự án JICA?
8) Chưa lồng ghép dự án JICA đang thực hiện với dự án của TNC để tránh trùng, sót.
9) Hiệu quả chống úng ngập sau khi thực hiện dự án ? ( bản đồ úng ngập trước và sau dự án)?
10) Các hậu quả sau khi thực hiện dự án ( tác động xấu ) ....
Download! toàn văn (pdf)
(www.vncold.vn)
|