» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81296983

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Báo động đỏ “Quản lý chất thải độc hại”. [12/9/08]
Các nhà khoa học từ lâu đã cảnh báo Việt Nam đang phải đương đầu với các vấn đề về môi trường như nạn phá rừng, khai thác quá mức tài nguyên sinh học, ...

Báo động đỏ “Quản lý chất thải độc hại”

TS. Tô Văn Trường

       Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển con người và sinh vật. Các nhà khoa học từ lâu đã cảnh báo Việt Nam đang phải đương đầu với các vấn đề về môi trường như nạn phá rừng, khai thác quá mức tài nguyên sinh học, tài nguyên đất xuống cấp, thiếu nguồn nước ngọt trong khi ô nhiễm ngày càng tăng, dân số tăng nhanh dẫn đến đói nghèo vv... Cảnh báo trên, ít nhiều được một số người có trách nhiệm quan tâm nhưng do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, các chủ trương chính sách và các biện pháp đưa ra không đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống làm cho chất lượng sống của người dân thực sự đã vào mức báo động đỏ. Đã đến lúc Việt Nam nên đặt lại mục tiêu phát triển cho đúng đắn hơn!

       Từ trước đến giờ, mục tiêu chủ yếu vẫn là tăng GDP. Với mặt bằng kinh tế thấp thì việc này tạm chấp nhận được, vì mục đích cấp bách là đưa đất nước thoát nhanh ra khỏi cảnh đói nghèo. Nhưng một khi đã thoát nghèo, thậm chí một bộ phận xã hội lại rất giàu thì ta càng cần phải nghiêm túc trong hành động, chứ không chỉ nói suông để bảo vệ môi trường.

Một vài ví dụ để minh chứng:

·         Lúc trước, ta tạm chấp nhận hy sinh một con sông để một nhà máy xả nước thải chưa qua xử lý đổ ra sông này, mục đích giúp địa phương thu thêm thuế, GDP được tăng lên. Bây giờ, không nên làm thế nữa, và phải biết quý trọng nguồn nước. Kinh nghiệm đau thương đã xảy ra khá nhiều sông rạch ở ngoại thành TP. Hồ Chí Minh không còn thủy sản, dân không dám dùng nước dù là để tắm rửa, thậm chí tàu nước ngoài (Nhật Bản, Singapore) tẩy chay  không vào sông Thị Vải vì sợ ô nhiễm làm hư hại vỏ tàu. Rõ ràng các trường hợp này, là lợi hoàn toàn bất cập hại, dù các nhà máy có tăng nguồn ngân sách cho ta bao nhiêu chăng nữa.

·         Lúc trước, ta tạm chấp nhận hy sinh một khoảnh môi trường, một cộng đồng nghèo khó để một công ty đặt nhà máy phá dỡ tàu biển với cùng mục đích giúp chính quyền có thêm thuế, GDP được tăng lên. Bây giờ phải nhất quyết chống lại ô nhiễm chất thải độc hại vốn rất tốn kém để xử lý, mà không xử lý thì hậu quả có thể kéo dài trong nhiều thế hệ con người. Cái giá cho tương lai như vậy là quá đắt.

·         Lúc trước, ta tạm cho nhập khẩu thiết bị second-hand để sử dụng trong khi còn nghèo khó. Kết quả là một số lớn máy vi tính second-hand, tuy rẻ nhưng thật ra dùng chẳng được bao lâu vì bản thân đã lạc hậu lại có tuổi sử dụng không cao. Khi thanh lý, lượng máy vi tính này thải ra nhiều chất thải độc hại. Tác động như trên, cái giá tiết kiệm không bao nhiêu và chỉ giúp một thành phần nhỏ trong xã hội tiết kiệm, trong khi tác hại thì lan rộng trong xã hội. Cái giá cho tương lai như vậy là quá đắt.

       Cần hiểu rằng trong các chất thải, thì chất thải độc hại là đáng sợ nhất. Ta chưa hiểu rõ hết được tác động về lâu dài và tương tác lẫn nhau. Đặc tính “lâu dài” thì ai cũng hiểu nhưng khó lường trước cho xác thực, làm sao ta biết xỉ từ việc phá dỡ tàu biển bao năm nữa sẽ gây tác hại, và tác hại bao lâu? 20 năm hay 50 năm? Đặc tính “tương tác” thì càng mù mờ hơn nữa. Nếu lấy một mẫu nước thử nghiệm, ta thấy mỗi chất độc hại đều nằm dưới tiêu chuẩn cho phép thì đừng vội mừng. Có dăm bảy chất độc hại đều nằm dưới tiêu chuẩn cho phép thì còn tạm chấp nhận được. Có đến vài chục chất độc hại, mỗi chất tuy nằm dưới tiêu chuẩn cho phép nhưng lại tương tác với nhau gây hiệu ứng độc hại như thế nào thì ta không thể lường trước được. Ví dụ về sự tương tác, theo tiêu chuẩn thì chất A chỉ gây hại từ mức 1 mg/L trở lên, và chất B cũng thế. Như vậy, nếu một mẫu nước chứa 0,5 mg/L chất A và 0,5  mg/L chất B thì là vô hại chăng? Chưa chắc! Tiêu chuẩn trên chỉ xét từng trường hợp đơn lẻ của chất A và chất B chứ không tính đến sự hiện diện của cả hai chất. Khi hiện diện cùng nhau thì mức gây hại của một chất đặc thù có thể bắt đầu sớm hơn, ở hàm lượng nhỏ hơn.

       Thật ra, vấn đề này không có gì mới. Từ ngàn xưa đến giờ, trong ngành dược đều nói đến việc cấm kỵ dùng một loại thuốc X cùng với một loại thuốc Y nào đó, nhưng dùng hai loại thuốc riêng rẽ, vào những lúc khác nhau thì lại tốt cho con bệnh.

       Tôi còn nhớ, năm 1990, khi đi dự hội nghị toàn cầu về môi trường ở Vancouver (Canada) được nghe các đồng nghiệp kể lại sông Ottawa chảy qua Thủ đô của Canada chỉ ra vấn nạn về hiệu ứng tương tác. Trong thập niên 1980, người ta tìm ra hàng trăm chất độc hại trong con sông này, mỗi chất đều nằm dưới tiêu chuẩn cho phép của nước uống, nhiều chất có hàm lượng rất nhỏ (nhỏ hơn microgram, tức phần triệu của gram) mà nhờ phương tiện phân tích cải tiến hiện đại nhất mới phát hiện được. Trước đó, danh sách các chất phát hiện được còn ngắn nên người ta an tâm. Bây giờ, vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học là với hàng trăm chất độc hại cùng hiện diện tuy rằng ở hàm lượng rất nhỏ như thế thì tầm mức độc hại tương tác là như thế nào? Ngay một nước tiên tiến như Canada còn chưa dám trả lời! Riêng các nhà khoa học Canada trong riêng tư cũng bày tỏ e ngại khi họ phải uống nước từ nguồn sông Ottawa! Từ đó đến nay, các nghiên cứu thêm vẫn chưa đưa ra lời giải đáp cụ thể vì phải xem xét hàng nghìn mối tương tác khác nhau! Nghiên cứu như thế là quá tốn kém, thậm chí vượt quá nguồn lực một nước giàu có như Canada! Thế là người ta thở than giá như biết thế thì đáng lẽ đã ngăn chặn ô nhiễm ngay từ đầu, chứ bây giờ nghiên cứu tầm mức độc hại do ô nhiễm thì là “nhiệm vụ bất khả thi!" Tiếc thay lịch sử lại không có 2 từ “giá như”.

       Lời thở than còn nghiêm trọng với trường hợp Ngũ Đại hồ (Great Lakes) nằm giữa Canada và Mỹ, là nguồn nước uống cho hai phần ba dân số Canada và hàng triệu người Mỹ. Điều không may là năm hồ vĩ đại này cũng tiếp nhận chất thải độc hại thải ra từ vô số các nhà máy nằm dọc dài ven bờ năm hồ này. Người ta đã phân tích được hơn 800 chất độc hại trong nước của năm hồ, nhiều chất trong số này được biết đã gây ung thư cho loài vật thí nghiệm. Vấn nạn vẫn thế, chưa có chất nào vượt tiêu chuẩn nước uống cho phép, nhiều chất có hàm lượng rất nhỏ, nhưng mối tương tác của hơn 800 chất độc hại này cộng lại với nhau đến đâu thì ngay cả các nhà khoa học chuyên ngành cũng chưa đánh giá hết được.

       Huống chi ở Việt Nam, đặc biệt ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp như nhiều nguồn nước, lớp đất ở nhiều nơi đang chứa chất độc hại vượt mức cho phép nhiều lần hỏi rằng tác hại sẽ đến bao nhiêu đối với con người!

       Sáng chủ nhật 7/9/2008 trong mục “NÓI và LÀM” do bà Phạm Phương Thảo chủ tịch hội đồng nhân dân thành phố chủ trì, người nông dân ở ngoại thành, đặc biệt là dân ở Củ Chi đã bức xúc chất vấn những người có trách nhiệm của thành phố về vấn nạn ô nhiễm môi trường với những dẫn chứng cụ thể nghe mà thật đau lòng. Đấy là họ không biết và chưa nói đến mối tương tác với môi trường. Ai biết được các chất độc hại sẽ gia tăng tầm mức nguy hiểm ra sao trong nước phèn? nước lợ? trong đất mùn? Muốn giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường trong cả nước nói chung, TP.HCM nói riêng, chúng ta cần đặt ra một vài mục tiêu tiên quyết phải làm cho kỳ được.

1.     Bảo vệ tài nguyên nước: Một số nơi hiện nay, nước tuy bị ô nhiễm nhưng vẫn tưới được cho cây trồng vì chỉ bị ô nhiễm hữu cơ. Về lâu về dài, Việt Nam sẽ đối mặt với vấn nạn trầm trọng là tài nguyên nước bị ô nhiễm, con người không sử dụng được, thậm chí tưới cho cây trồng cũng không được vì bị nhiễm hóa chất độc thải. 

2.     Bảo vệ tài nguyên đất: Với những lý do tương tự như trên nhưng lại bức xúc hơn nữa, vì xử lý đất ô nhiễm vừa khó khăn, vừa tốn kém hơn lại dính dáng đến nước ngầm. Lấy ví dụ cụ thể vào giữa thập niên 1980, một chiếc xe tải chở thiết bị điện chứa hợp chất PCB (polychlorobiphenyls, có thể gây ung thư), vì bất cẩn làm rò rỉ PCB trên khoảng chục km đường quốc lộ xuyên Canada. Chính quyền phải phong tỏa đoạn quốc lộ này, di tản cư dân địa phương, ra thông báo các chủ nhân có xe ô tô đã đi qua đoạn đường đó phải có biện pháp tẩy rửa xe và gara, xử lý đoạn đường bị nhiễm… Chi phí xử lý và khắc phục tổng cộng tốn hàng triệu đô la mà vẫn chưa an tâm về tác động xấu đến môi trường.  

3. Quản lý chất thải độc hại: Chỉ tính riêng TP.HCM hiện nay có khoảng 30.000 xí nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sử dụng nhiều hóa chất, hợp chất có đặc tính nguy hiểm như phóng xạ, dễ cháy nổ, ăn mòn kim loại vv... Mỗi ngày các xí nghiệp này thải ra khoảng 217 tấn chất thải nguy hại dạng rắn và lỏng gây ô nhiễm môi trường, trong khi đó chỉ có 600/30.000 đơn vị (chiếm có 2%) đăng ký chủ nguồn chất thải nguy hại!? Cần phải có biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc xử lý chất thải nguy hại do mình gây ra và đầu tư tăng cường các công ty có chức năng xử lý chất thải nguy hại.

4.     Nhất quyết không cho nhập phế thải, hàng hóa second-hand: Việt Nam chuẩn bị tiến lên khỏi nhóm các nước nghèo, tức là đã “khấm khá”, thì hà cớ gì phải tiêu dùng phế liệu? Kinh nghiệm của các nước tiên tiến cho thấy không dùng hàng second-hand dù có rẻ hoặc cho không, biếu không nếu loại hàng này chứa chất nguy hại, cực kỳ nguy hiểm trong tương lai lâu dài hay không chứa chất nguy hại nhưng khi thanh lý vẫn phải cần đất làm bãi rác! Viết đến đây, tôi lại nhớ đến câu nói của đồng nghiệp người Thụy Điển “People give nothing for nothing” (Chẳng ai cho không ai cái gì bao giờ).

5.     Nhất quyết không cấp giấy phép đầu tư gây ô nhiễm nguy hại: đây là cái “chảnh” nên thể hiện, để cho nước ngoài biết rằng dù ta chưa phải là “giàu” nhưng ta đã biết sống “sạch”. Để cho các nhà đầu tư hiểu rằng dù họ có hứa trích bao nhiêu tiền cho ngân sách, cho quỹ vì người nghèo, cho nhà tình thương… thì vẫn không sao bù được những tổn hại lâu dài cho con cháu Việt Nam. Bây giờ đất nước tuy còn có khó khăn nhất định nhưng cũng đùm bọc nhau được chứ không chấp nhận giải quyết khó khăn nhất thời để rồi về lâu dài làm bãi rác của quốc tế.

 

6.     Kiên quyết ngăn chặn hóa chất giả: cũng đồng nghĩa ngăn chặn phân bón giả, thuốc bảo vệ thực vật giả, thuốc kích thích thực vật giả… vì cuối cùng các chất giả này cũng sẽ đi vào môi trường. Ngoài ra, còn có tác động tệ hại hơn là các chất này cũng xâm nhập vào cơ thể con người!

7.     Gắn kết quyền lợi địa phương với quyền lợi đất nước. Nhà nước phải cầm chịch để ngăn chặn địa phương vì quyền lợi cục bộ mà hy sinh quyền lợi của quốc gia và không loại trừ vì quyền lợi cá nhân mà hy sinh quyền lợi tập thể. Đỉển hình là việc ký quyết định ồ ạt cho phép xây sân golf, mở nhà máy không có công nghệ xử lý ô nhiễm ngay trên cả đất lúa tốt “bờ xôi, ruộng mật”, ngân sách địa phương có lợi (không loại trừ túi tiền cá nhân cũng có lợi!) nhưng tác hại nhiều đến an sinh xã hội, an ninh lương thực, chứ không chỉ đơn thuần là ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, cần thêm mục tiêu kế tiếp:

8.     Gắn kết với quyền lợi người dân Việt Nam. Nhiều luận cứ đưa ra về việc phát triển kinh tế–xã hội bỏ quên một điểm cốt lõi: dự án phát triển có thể mang lại tác hại cho một bộ phận xã hội, một cộng đồng mà họ hoàn toàn không hưởng lợi gì từ dự án, lại hoàn toàn không được đền bù. Nông dân mất đất có tiền đền bù đã đành, nhưng tiền đền bù này có giúp họ mua được ở nơi khác, mảnh đất với diện tích và độ mầu mỡ tương đương hay không? Đa phần là không. Còn đất là còn cách kiếm sống tuy nhọc nhằn, tuy không sang giàu, nhưng chấp nhận được. Không còn đất, họ không thể chuyển nghề có hiệu quả, rồi dần dà tiền đền bù tiêu xài hết, họ và đám con cháu sẽ sống bằng cách nào? Rồi những sông rạch bị ô nhiễm đến nỗi không ai dám dùng nước, ruộng rẫy bị ô nhiễm, năng suất tụt giảm, thì chưa hề có tiền lệ để đền bù cho người dân Việt Nam.

9.     Thực thi pháp luật. Pháp luật ta tuy chưa hoàn chỉnh nhưng nếu thực thi chặt chẽ thì cũng có tác dụng chứ không phải là vô hiệu như vài luận cứ chống chế. Biện pháp phạt tiền đã có, nhưng đâu có hạn định mỗi năm tối đa phạt bao nhiêu! Thế thì nếu gây ô nhiễm mà tái phạm đi tái phạm lại thì cứ phạt đi, phạt lại thử xem! Xin đừng ra án phạt một vài chục triệu đồng cho hành động vi phạm trên diện rộng, có tầm mức nguy hại cao mà lại tái phạm nhiều lần. (Phạt như thế e rằng làm trò cười cho quốc tế trong thời đại hội nhập này.) Đi kiểm tra đánh giá mức độ ô nhiễm mà lại báo trước dễ tạo điều kiện cho đối tượng tìm cách đối phó. Ngay cả án tù vì tội gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ta cũng đã có, nhưng lại loay hoay về việc tuyên án ai.

       Ở Thụy Điển, có lần tòa án tuyên án tù cho người quản lý đã ra lệnh công nhân dưới quyền đem chôn bất hợp pháp chất thải nguy hại. Tòa án dựa trên lý lẽ rằng công nhân chỉ thừa lệnh thì không bị tù, tổng giám đốc không ra lệnh thì cũng không bị tù, nhưng người quản lý rõ ràng là đã ra lệnh ấy nên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong một số vụ việc, chính quyền còn điều đình với công ty vi phạm phải trả tiền bồi thường cao hơn mức tiền phạt mà luật cho phép. Tương tự như vậy, ta có thể tính ra thiệt hại cho nuôi trồng thủy sản, sản lượng hoa màu giảm sút… trình tòa án giải quyết chứ không nhất thiết bị hạn chế bởi tiền phạt của vi phạm bảo vệ môi trường. Cần rà soát lại, để phát hiện những kẽ hở thì nên gấp rút hoàn chỉnh để pháp luật có hiệu lực mạnh hơn. Ví dụ như chỉ cần thải chất gây ô nhiễm môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép, gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường là bị xử lý hình sự. Tiền phạt với tội phạm môi trường cũng phát thích đáng đủ sức răn đe.

       Tóm lại, bài học lớn nhất cho những người có trách nhiệm về quy hoạch phát triển quốc gia là phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn phát triển, ta nên rà soát lại mà điều chỉnh các mục tiêu phát triển, đó là (1) vì tương lai, (2) vì đất nước nói chung, và (3) vì chất lượng cuộc sống. Xin lưu ý là chất lượng cuộc sống không phải chỉ được đo bằng GDP, bằng sản lượng điện tiêu thụ, sản lượng của công nghiệp ngành nhựa… Cần tham khảo cách phân loại chất lượng sống của (UNDP) để suy ngẫm thêm chất lượng cuộc sống mà ta cần hướng đến. Cha mẹ người Việt có truyền thống hy sinh cho con cái. Bảo vệ môi trường đòi hỏi từ lãnh đạo đến người dân cùng nhau chung sức xây dựng đường hướng phát triển cho đúng cách, có chiều sâu, nghĩa là bảo vệ cuộc sống không phải chỉ cho chính thế hệ hôm nay mà còn cho cả mai sau./.

(www.vncold.vn  

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o