ĐỐI XỬ VỚI CÁC DỰ ÁN THỦY ĐIỆN TRÊN LƯU VỰC SÔNG MÊ CÔNG:
HÃY CHỦ ĐỘNG TRONG BỊ ĐỘNG!
Nguyễn Văn Tăng
1- Nguồn tài nguyên thủy điện sông Mê Công là vô cùng lớn, hàng chục công trình với vốn xây dựng hàng tỷ đô la cho mỗi dự án đã, đang và trong dự kiến. Vì sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia: Trung Quốc, Thái Lan, Cămpuchia , Lào… trước sau rồi thì nguồn năng lượng thủy điện vẫn phải được khai thác triệt để. Vậy, việc có các công trình ngăn dòng chính, dòng phụ sông Mê Công để phát điện là việc làm của người khác, ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam. Bối cảnh này, chúng ta phải đặt vào tình thế là bị động trước những ảnh hưởng do các công trình này tác động đến, một phương án cho là không thể phản đối mãi việc khai thác thủy điện trên dòng sông Mê Công được. Vậy, tốt hơn hết,một cách nghĩ thực tiễn hơn: hãy chủ động nghiên cứu đề xuất các bước đi, các sơ đồ khai thác nguồn nước, phương thức hợp tác trong vùng, tự tìm ra những đối sách sao cho bên có các dự án cũng thỏa mãn, bên Việt nam lại chủ động được các phương án phòng ngừa giảm thiểu tối đa những ảnh hưởng tiêu cực . Việc này nên làm từ bây giờ.
2- Trước tiên, ta thử xem xét các loại hình công trình thủy điện ở phía thượng nguồn của Việt Nam và liên hệ với DATĐ đã hoặc dự kiến sẽ được xây dựng trên sông Mê Công:
- Loại hình thứ nhất, DATĐ bao gồm một hay nhiều hồ chứa lớn (dạng điều tiết năm, điều tiết nhiều năm) cung cấp nước cho trạm thủy điện, nước được tích trong hồ khi mùa mưa để phát điện khi mùa khô, tiêu biểu như thủy điện Sông Đà, Sơn La, Trị An…của Việt Nam.
- Loại hình thứ hai: DATĐ bao gồm các đập dâng để tạo cột nước cao để phát điện, sử dụng dòng chảy tự nhiên là chính, hồ có dung tích rất nhỏ (hồ điều tiết ngày, giờ), không ảnh hưởng nhiều đến lưu lượng tự nhiên của sông (dạng này là dự án thủy điện Xayaboury - Lào, chưa có ở Việt Nam).
- Loại hình thứ ba: DATĐ thường bao gồm hố chứa dung tích lớn, sau khi phát điện, nước được dùng cho tưới tiêu thủy lợi hoặc chuyển nước sang lưu vực khác, nước không trở lại dòng sông chính (dạng Thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi; Đa Nhim …).
Mỗi loại hình khai thác nước cho các DATĐ sẽ tạo hình thức ảnh hưởng, với mức độ ít, nhiều khác nhau.
3- Những ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến khu vực hạ lưu mà chủ yếu là khu vực đồng bằng sông Cửu Long của Việt nam là gì:
- Thứ nhất, là khi có các DATĐ được xây dựng, sẽ giảm lưu lượng nước trên dòng chính cả mùa khô lẫn mùa mưa: Kết quả này kéo dài thời gian và tạo điều kiện nước mặn lấn sâu vào nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long - loại hình DATĐ thủy điện thứ ba là nguyên nhân chính.
- Thứ hai là khi có các DATĐ lưu lượng nước mủa mưa bị giảm, nhưng nhìn chung là tăng lưu lượng nước ở mùa khô – loại công trình thứ nhất (làm hồ chứa nước lớn): Trường hợp này, do các hồ tích nước, giữ lại một phần lượng phù sa, nước sông sẽ thấp hơn trước khi có các dự án, hạn chế lượng nước chảy vào trong đồng. Kết quả làm giảm lượng phù sa bồi đắp trên mặt ruộng, không tẩy sạch các loại sinh vật độc hại trên đồng như sâu bọ, chuột, đồng thời có thể gây nạn hạn hán những tháng đầu, tháng cuối thời vụ lúa. Chúng tôi cho rằng hiện tượng tiêu cực bởi giảm lượng phù sa cho đồng là những tác động lớn lao nhất. Khi nước lũ về ít, mực nước thấp cũng đồng nghĩa với nguồn thủy hải sản trong đồng giảm. Lưu ý một điều ở đây là: những tác động tiêu cực như vừa nói gây bởi các DATĐ xây dựng dù trên dòng sông chính hay trên các nhánh sông đều tác động tới hạ lưu là như nhau. Một ưu điểm của DATĐ có hồ chứa là sẽ bổ sung thêm lượng nước vào dòng sông chính khi mùa khô so với bình thường, giảm nguy cơ xâm nhập mặn sâu vào trong đồng.
- Thứ ba: khi có các DATĐ, tình hình lưu lượng, mực nước trên sông chính thay đổi rất ít hoặc không thay đổi ở các mùa, đó là loại hình DATĐ thứ hai (đập dâng). Các kiểu DATĐ này không giảm mực nước và lưu lượng cả mùa khô lẫn mùa mưa so với bình thường, nhưng làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái của các loại thủy sản, ảnh hưởng tới giao thông đi lại trên sông… Các giải pháp kĩ thuật để khắc phục tính tiêu cực của loại hình công trình này gây ra không phức tạp, vấn đề chỉ là đầu tư kinh phí cho thỏa đáng.
4- Chủ động trong bị động.
a- Trước hết nên xác định nhữn tác động tiêu cực, tích cực của mỗi loại hình DATĐ dự kiến xây dựng sẽ gây nên cho hạ lưu.
b- Đề xuất nên ưu tiên phát triển những loại hình DATĐ tác động ít nhất đến môi trường ở hạ lưu cụ thể là các dự án có đập dâng, với dung tích hồ chứa nhỏ, đầu nước thấp…có đầu tư các hạng mục công trình cải tạo môi trường thỏa đáng.
c- Những loại hình dự án Thủy điện ảnh hưởng lớn đến môi trường, cụ thể là xây dựng những hồ chứa có dung tích lớn ở dòng sông chính, kể cả trên sông nhánh càng giảm được nhiều càng tốt; nên tránh tuyệt đối những dự án phải chuyển nước sang lưu vực sông khác… Nếu chẳng đừng, các dự án đó cứ phải triển khai thì cũng nên đi dần từng bước, có nghiên cứu xem sét, đánh giá tác động tổng hợp, sau đó tìm cách giải quyết, kể cả tính đến việc phải chờ đợi cho đến đến khi trình độ KHKT và nguồn vốn cho phép đủ để giải quyết ngăn chặn những tác động tiêu cực mà nó gây ra.
d- Một Ủy ban được thành lập đại diện cho các quốc gia trong vùng hoạt động trên tinh thần thực sự hợp tác, đề xuất những bước đi thích hợp, các giải pháp công trình tốt nhất sao cho vừa khai thác tốt nguồn thủy năng, sản xuất nông nghiệp, đánh bắt thủy sản thật hài hòa giữa các quốc gia.
e- Ở Việt Nam, ngay bây giờ, dù quy mô lớn, bé sẽ phải thành lập một bộ phận chuyên trách, cố vấn cho chính phủ, kịp thời đưa ra đối sách chính trị, các giải pháp khoa học kĩ thuật một cách kịp thời.
Ngày 2 tháng 4 năm 2011
|