» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81289256

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Báo cáo dẫn đề Hội thảo ‘Thời gian thực hiện dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam Thực trạng và giải pháp’ Ngày 15/12/2011 tại Hà Nội.[16/12/11]
Thực hiện Chiến lược Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong hoàn cảnh nước ta lĩnh vực đầu tư - xây dựng giữ vai trò hết sức quan trọng; nguồn kinh phí đầu tư toàn xã hội hàng năm trong giai đoạn 2001 – 2010 chiếm khoảng 40% GDP. Hiệu quả đầu tư góp phần quan trọng cho nền kinh tế "đạt tăng trưởng 7,28% năm...làm thay đổi diện mạo của đất nước "... cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân....

Báo cáo dẫn đề Hội thảo

‘Thời gian thực hiện dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam

Thực trạng và giải pháp’

Ngày 15/12/2011 tại Hà Nội

 

Trần Ngọc Hùng

Chủ tịch Tổng Hội Xây dựng Việt Nam

 

            Thực hiện Chiến lược Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong hoàn cảnh nước ta lĩnh vực đầu tư - xây dựng giữ vai trò hết sức quan trọng; nguồn kinh phí đầu tư toàn xã hội hàng năm trong giai đoạn 2001 – 2010 chiếm khoảng 40% GDP. Hiệu quả đầu tư góp phần quan trọng cho nền kinh tế "đạt tăng trưởng 7,28% năm...làm thay đổi diện mạo của đất nước "... cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân....*.

            Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 cũng nhận định "Kinh tế phát triển bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp...Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải".

            Hiệu quả đầu tư thấp biểu hiện rõ nhất là chỉ số ICO rất cao. Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư cả về kinh tế đến xã hội là thời gian thực hiện dự án đầu tư dài, hầu hết các dự án đầu tư – xây dựng kéo dài, chậm tiến độ. Rất ít dự án đạt, vượt tiến độ.

            Trước thực tế việc thực hiện dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam như vậy. Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ Tổng Hội Xây dựng Việt Nam cùng Bộ Xây dựng và các Bộ ngành liên quan tổ chức cuộc hội thảo "Thời gian thực hiện dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp". Nhằm đánh giá một cách đầy đủ thực trạng và đưa ra các kiến nghị giải pháp nhằm rút ngắn thời gian thực hiện các dự án đầu tư xây dựng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư.

            Để hội thảo có một cách nhìn toàn diện ngoài những tham luận liên quan đến thực trạng các dự án kéo dài, chậm tiến độ. Chúng ta cũng sẽ được tham khảo kinh nghiệm của các dự án làm nhanh, vượt tiến độ đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao như - công trình Thuỷ điện Sơn La hoàn thành sớm 2 năm tiết kiệm hàng tỷ Đô la đặc biệt góp phần quan trọng phục vụ cho sản xuất, đời sống đang hết sức khó khăn về nguồn cung cấp điện, góp phần quan trọng vào việc điều tiết nước cho hạ lưu.

            Các công trình Thuỷ điện Sê San 3,4,  A Vương Trung tâm Hội nghị Quốc gia, cải tạo, mở rộng đường phố thành phố, chỉnh trang đô thị Đà Nẵng, Sân vận động Mỹ Đình, toà nhà VIMCOM Thành phố Hồ Chí Minh...hoàn thành nhanh, đúng tiến độ kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của nhà nước, địa phương và nhân dân.

            Thông qua các báo cáo tham luận này chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, đánh giá đúng mức các nguyên nhân có thể thực hiện thời gian hoàn thành dự án nhanh, đạt và vượt tiến độ đề ra.

            Tuy nhiên phải thấy rằng trong thực tế hàng chục nghìn dự án triển khai trong thời gian qua hầu hết đều kéo dài, không đạt tiến độ nhất là các dự án sử dụng vốn nhà nước, như báo cáo của Đoàn Giám sát Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nhận định "Công tác đầu tư sử dụng vốn nhà nước còn nhiều hạn chế, yếu kém, hiệu quả đầu tư thấp làm ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, xã hội ...  Tiến độ các dự án sử dụng vốn nhà nước rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp; còn thất thoát lãng phí, đầu tư thiếu đồng bộ; Tình trạng bố trí vốn dàn trải còn khá phổ biến... Công tác chuẩn bị đầu tư, chất lượng lập, thẩm định, phê duyệt dự án một số Bộ, ngành chưa tốt. Công tác khảo sát, lập dự toán của hầu hết các đơn vị được kiểm toán chưa đáp ứng yêu cầu nên phải thay đổi, bổ sung, điều chỉnh kéo dài thời gian đầu tư ... "

            Như vậy phải thấy rằng nguyên nhân của việc thời gian thực hiện dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam kéo dài, chậm tiến độ diễn ra ở tất cả các giai đoạn đầu tư từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến giai đoạn vận hành sử dụng. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét thực trạng của các giai đoạn đầu tư các dự án xây dựng ở Việt Nam trong đó tập trung phân tích những tồn tại làm dự án kéo dài, chậm tiến độ.

I. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Đây là giai đoạn rất quan trọng quyết định đến hiệu quả, tiến độ của dự án, như câu phương ngôn nổi tiếng "Chuẩn bị đầy đủ là trận đánh đã thắng một nửa".

            1. Chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng được thực hiện thông qua chủ trương đầu tư trên cơ sở :

            -  Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội;

            -  Quy hoạch xây dựng;

            -  Nguồn vốn thực hiện;

            -  Hiệu quả kinh tế xã hội của dự án.

            Để thực hiện công việc này người  quyết định đầu tư hoặc chủ đầu tư phải lập "báo cáo chuẩn bị đầu tư", hay là báo cáo "tiền khả thi".

            Thực hiện giai đoạn này nhanh có ý nghĩa rất lớn đến hiệu quả dự án nhất là tính "thời cơ" của dự án (dự án sản xuất điện khi đang thiếu điện nghiêm trọng, dự án sản xuất phân đạm khi thị trường đang khan hiếm và giá cả tăng cao, dự án cung cấp Nhà Văn phòng khi nhu cầu rất lớn của doanh nghiệp...).

2. Việc triển khai các giai đoạn chuẩn bị đầu tư.

            2.1.Chuẩn bị lập dự án đầu tư

                        a. Lựa chọn địa điểm quy mô dự án: Đây là công việc khởi đầu của các chủ đầu tư trên cơ sở chủ trương đầu tư đã được xác định việc lựa chọn địa điểm, quy mô dự án trừ dự án đã nằm trong khu công nghiệp, khu đô thị đã quy hoạch còn các dự án khác rất lúng túng khi triển khai do :

-          Nhiều dự án thời gian qua khâu khởi đầu lựa chọn địa điểm, quy mô dự án thường bị kéo dài do quy quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết chưa có phải chờ đợi thỏa thuận của cơ quan hữu quan, từ đó xuất hiệu cơ chế "xin cho" phát sinh tiêu cực, từ lựa chọn địa điểm, quy mô dự án, diện tích sử dụng, chiều cao công trình...

-          Mặt khác nhiều dự án không có vốn chuẩn bị đầu tư dẫn đến kéo dài giai đoạn chuẩn bị.

b. Giai đạo khảo sát thu thập thông tin phục vụ cho lập dự án đầu tư: Đây là giai đoạn rất quan trọng, quyết định địa điểm đầu tư từ kết quả thông tin về địa hình, địa chất, thủy văn, nguồn cấp nước, cấp điện, đến hệ thống giao thông kết nối, cung cấp nguyên liệu vật liệu đầu vào, sản phẩm đầu ra, đánh giá tác động môi trường...

Tuy nhiên theo tổng kết của nhiều ngành, địa phương công tác khảo sát chưa được chú trọng đúng mức, thậm chí còn rất sơ sài dẫn đến hiệu quả đầu tư kém, tiến độ kéo dài.

-          Nhiều đoạn đường, công trình xây dựng phải thay đổi địa điểm thay đổi thiết kế, xử lý nền móng tốn kém, kéo dài.

-          Nhiều công trình không đồng bộ, kết nối hạ tầng, thiếu nguyên liệu dẫn đến tiến độ sử dụng kéo dài (nhà máy không có nguyên liệu, không đấu nối đồng bộ hệ hạ tầng kỹ thuật ...)

2.3. Giai đoạn thẩm định dự án và quyết định đầu tư

- Thẩm định dự án đầu tư trước khi quyết định đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đặc biệt các dự án lớn có ảnh hưởng đến kinh tế, dân cư, môi trường. Chúng ta đã có những kết quả về công tác quan trọng này: Như việc quyết định phương án Sơn La Thấp, Quyết định xây dựng Đường dây 500 KV Bắc Nam, một số dự án Khí - điện - đạm... đồng thời có những bài học thông qua các dự án Lọc dầu Dung Quất, Đường sắt Cao tốc Bắc Nam, Xây dựng hàng loạt nhà cao ốc ở Trung tâm Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh...

Thực tế qua báo cáo của các bộ, ngành, địa phương với Đoàn Giám sát của UBTVQH. Qua thực tế theo dõi phản ánh, chúng ta nhận thấy công tác thẩm định dự án đầu tư còn chưa được thực hiện theo quy định, nhiều dự án còn làm chiếu lệ, nhiều đơn vị tư vấn thẩm định trình độ năng lực còn hạn chế, làm theo ý chủ đầu tư, ý chí của người quyết định đầu tư dẫn đến những hiệu quả dự án đầu tư xây dựng chậm trễ, kéo dài, hiệu quả thấp.

Mặt khác phải thừa nhận rằng còn có tình trạng quyết định đầu tư còn duy ý chí, quyết định theo cảm tính, đầu tư theo phong trào và có trường hợp vì lợi ích cục bộ, của nhóm lợi ích.

Cũng cần nói thêm rằng nhiều dự án khi quyết định đầu tư chưa thực hiện được việc công khai, minh bạch, không thực hiện việc lấy ý kiến dân chủ tư vấn phản biện giám định xã hội của các nhà khoa học, của người dân một cách khách quan khoa học. Nhiều trường hợp lấy ý kiến một cách hình thức, chiếu lệ.

3. Việc chấp hành quy định của Pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư

 Để triển khai dự án đầu tư xây dựng chủ đầu tư phải thực hiện nhiều quy định của pháp luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật quy hoạch đô thị, Luật Đấu thầu. Kèm theo đó là hàng loạt nghị định thông tư hướng dẫn, nhiều địa phương  còn "bổ sung" thêm các quy định thủ tục. Vì vậy để thực hiện các bước theo đúng trình tự theo các quy định pháp luật chủ đầu tư phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính qua nhiều khâu, nhiều cửa. Mặc dù đã có nhiều bổ sung sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều quy định của pháp luật hướng dẫn thực hiện của địa phương còn thiếu thống nhất chồng chéo dẫn đến thời gian chuẩn bị kéo dài (riêng "căn cứ pháp lý" để quyết định 1 dự án đã phải viện dẫn hàng trang giấy với vài chục quy định khác nhau, hàng chục con dấu xác nhận của các cơ quan khác nhau dự án ít nhất là 16 con dấu??).

Về thủ tục cuối cùng để triển khai dự án thuộc nguồn vốn nhà nước theo các quy định của Pháp luật việc quyết định phân bổ kinh phí và danh mục đầu tư từ ngân sách nhà nước phải căn cứ kế hoạch kinh tế xã hội vào nguồn vốn ngân sách và phải trình Hội đồng Nhân dân. Tuy nhiên nhiều địa phương không thực hiện đầy đủ dẫn đến đầu tư dàn trải, vì lợi ích cục bộ, bệnh thành tích, không có nguồn kinh phí thực hiện dẫn đến nợ đọng, công trình đình hoãn thi công, kéo dài thời gian thực hiện dự án.

            Mặt khác cũng cần xem lại quy định việc tất cả dự án phải lên danh mục, phương án phân bổ trình Hội đồng Nhân dân có gây chậm chễ và hình thức, phải chăng chỉ trình Hội đồng Nhân dân các công trình có tầm quan trọng về kinh tế, dân cư, môi trường, giống như Công trình quan trọng Quốc gia trình Quốc hội nhưng ở mức thấp hơn. Các dự án này còn phải lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức xã hội nghề nghiệp liên quan. (Ví dụ: chỉ trình HĐND dự án từ nhóm B, còn nhóm C giao cho Thường trực UB và các Sở chức năng tham mưu quyết định) điều đó làm tăng trách nhiệm của lãnh đạo cấp Tỉnh, đẩy mạnh tiến độ của dự án.

            - Theo quy định của Pháp luật chủ đầu tư, người quyết định đầu tư phải chịu trách nhiệm quyết định của mình (đặc biệt vốn nhà nước). Tuy nhiên do chế tài còn nhẹ, không nghiêm nên rất nhiều dự án vi phạm các quy định của Pháp luật bố trí công trình dàn trải, không có vốn triển khai, không đủ điều kiện cũng cho khởi công... gây lãng phí, thất thoát, thi công chậm chễ, kéo dài không được xử lý nghiêm dẫn đến tình trạng này kéo dài trong nhiều năm và đến nay vẫn chưa được khắc phục.

            - Việc phân cấp quyết định đầu tư rất mạnh cho các cấp là cần thiết. Tuy nhiên còn bất hợp lý do trình độ năng lực số lượng cán bộ chuyên môn của các địa phương (các tỉnh, quận, huyện) rất khác nhau vì vậy không thể phân cấp cào   bằng, điều đó cũng dẫn đến công tác chuẩn bị đầu tư bị kéo dài.

            Sau đây là ví dụ tham khảo về thời gian thực hiện chuẩn bị đầu tư (báo cáo giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qua Tổng kết ở các địa phương).

 

Dự án

Từ chủ chương đầu tư đến khi khởi công công trình

Nhóm A

42 tháng (1250 ngày)

Nhóm B

29 tháng (870 ngày)

Nhóm C

23 tháng (675 ngày)

 

II. Giai đoạn thực hiện dự án đầu tư

1. Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng: (Nhiều chuyên gia còn phân vân muốn để khâu này ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư nhất là khi ta thực hiện mặt bằng "sạch" ở khu công nghiệp, khu đô thị mới khi làm xong hệ thống cơ sở hạ tầng).

Đây vẫn là khâu phức tạp, kéo dài ở hầu hết các dự án đầu tư,  để thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng trải qua nhiều bước.

1.     Bàn giao dự án cần giải phóng mặt bằng cho địa phương.

2.     Lập phương án giải phóng mặt bằng tổng thể.

3.     Thẩm định và duyệt phương án giải phóng mặt bằng.

4.     Thông báo và ra quyết định thu hồi đất.

5.     Kê khai, kiểm đếm, và xác định nguồn gốc đất.

6.     Lập thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường.

7.     Phương án di dời tái định cư (nếu có).

8.     Bàn giao đất sạch sau khi thu hồi.

Theo trình tự trên bình quân phải mất 20 tháng (đặc biệt là khâu5,6,7). Thực tế nhiều công trình kéo dài 5,7 năm thậm chí hàng chục năm (việc chậm trễ giải phóng mặt bằng diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước ở tất cả các loại dự án công trình thuộc các nguồn vốn khác nhau).

Nguyên nhân của sự chậm chễ của giai đoạn giải phóng mặt bằng đã được nhiều hội thảo, nhà quản lý, doanh nghiệp, chuyên gia đánh giá có thể tóm tắt một số nguyên nhân chính sau:

- Cơ chế, chính sách, quy định liên quan về đền bù giải phóng mặt bằng còn bất cập liên quan đến quyền lợi trực tiếp của người dân "bị giải phóng mặt bằng" tập trung vào các nội dung:

+ Giá đền bù thiếu nhất quán và không phù hợp.

+  Nơi và điều kiện tái định cư. Không phù hợp "không bằng và tốt hơn nơi ở cũ" đặc biệt là không đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.

+  Công ăn việc làm và điều kiện học nghề của dân cư bị thu hồi đất chưa được quan tâm thực hiện dẫn đến nhiều vấn đề xã hội nẩy sinh phức tạp.

-  Loại hình dự án để thực hiện giải phóng mặt bằng thu hồi, đền bù đất còn thiếu rõ ràng giữa dự án phục vụ quốc phòng an ninh, lợi ích công cộng khác với dự án kinh doanh liên quan phương án, chính sách giải phóng mặt bằng đặc biệt lợi nhuận của dự án kinh doanh chênh lệch quá lớn giữa chủ đầu tư và người bị thu hồi đất gây nên sự khiếu kiện phổ biến, kéo dài..

- Các tổ chức tư vấn lập phương án giải phóng mặt bằng, các ban giải phóng mặt bằng không chuyên nghiệp, lúng túng bị động.

- Kinh phí đền bù, giải phóng mặt bằng chưa phù hợp, nhà "tái định cư" chất lượng kém, không đồng bộ và chưa phù hợp (nhiều dự án người dân đã chuyển cho chủ khác chiếm 50 – 70% căn hộ). Vì vậy cần nghiên cứu thay đổi sang phương thức đền bù theo giá thị trường, người dân được lựa chọn nơi ở mới phù hợp với khả năng tài chính, sinh hoạt, môi trường sống... nhà nước không xây dựng nhà tái định cư giá rẻ trừ các dự án ở miền núi, vùng sâu vùng xa.

-  Các chế tài còn chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh

2. Giai đoạn lập thiết kế kỹ thuật

2.1. Lựa chọn đơn vị tư vấn thiết kế:  Thông qua đấu thầu tư vấn thiết kế để chọn đơn vị tư vấn thiết kế phù hợp, có uy tín, kinh nghiệm là điều kiện đảm bảo triển khai dự án có hiệu quả, đảm bảo tiến độ của dự án trong đó thể hiện.

- Thời gian hoàn thành thiết kế, dự toán.

- Chất lượng của thiết kế: tốt sẽ hạn chế tối đa sự cố, sửa đổi bổ sung kéo dài giai đoạn thi công.

- Chất lượng của dự án tốt sẽ phục vụ tốt cho hồ sơ mời thầu, đảm bảo quá trình thực hiện dự án không lãng phí, không bị động thiếu vốn ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện.

Thời gian qua lực lượng tư vấn thiết kế đã lớn mạnh nhanh chóng hàng chục ngàn đơn vị ra đời đã góp phần quan trọng vào việc đáp ứng được yêu cầu của các chủ đầu tư thực hiện các nguồn vốn khác nhau. Tuy nhiên lực lượng các nhà thầu tư vấn có chất lượng còn chưa nhiều, còn khá nhiều đơn vị tư vấn được thành lập theo luật doanh nghiệp quá dễ dãi mang tính hình thức, chất lượng thấp, nhiều lĩnh vực chuyên ngành mới tư vấn thiết kế còn thiếu và yếu kém (công nghiệp hóa chất, hệ tự động, cầu vượt khẩu độ lớn, nhà cao - siêu cao tầng...) dẫn đến nhiều thiết kế không phù hợp phải bổ sung, sửa đổi gây tốn kém, kéo dài thời gian (công trình lún sụt, thiết kế mâu thuẫn không đồng bộ giữa công nghệ và xây dựng, giữa hệ thống thông gió, điện năng, điện nhẹ, tự động và xây dựng phải nhiều lần chờ đợi, sửa đổi ...)

2.2. Giai đoạn lựa chọn tư vấn thẩm định

Thẩm định thiết kế, dự toán giữ vai trò rất quan trọng, phát hiện kịp thời các sai sót (nếu có), kiến nghị các sửa đổi, bổ sung ngay từ giai đoạn thiết kế điều đó hạn chế sai phạm và giảm tình trạng sửa đổi, bổ sung trong quá trình triển khai.

Với tầm quan trọng như vậy đòi hỏi Công ty Tư vấn thẩm định, các cá nhân trực tiếp thẩm định có trình độ năng lực, kinh nghiệm. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều trường hợp  thẩm định còn hình thức, chế độ trách nhiệm, chế tài còn thiếu cụ thể. Mặt khác do chưa coi trọng đúng mức công tác này nên phí thẩm định rất thấp không đảm bảo điều kiện chất lượng thẩm định là một trong những nguyên nhân dẫn đến sai phạm trong thiết kế phải sửa đổi bổ sung làm ảnh hưởng đến tiến độ công trình.

3. Giai đoạn đấu thầu thi công xây lắp

Đây là giai đoạn rất quan trọng để lựa chọn nhà thầu có năng lực, uy tín  thực hiện giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất của dự án quyết định đến việc hoàn thành tiến độ, chất lượng và giá thành của dự án.

Thông qua các quy định của Luật đấu thầu, chủ đầu tư các dự án từ các nguồn vốn khác nhau để thực hiện việc lựa chọn các nhà thầu phù hợp với dự án. Đối với dự án có nguồn vốn của doanh nghiệp nước ngoài, của doanh nghiệp tư nhân là người "chủ thực sự" của dự án thường được tổ chức đấu thầu rất "bài bản", từ đó lựa chọn được các nhà thầu phù hợp dẫn đến việc thi công đảm bảo tiến độ theo yêu cầu của chủ đầu tư. Điều đặc biệt cần lưu ý là khi đã lựa chọn được nhà thầu họ chuẩn bị rất kỹ các điều khoản ràng buộc trong Hợp đồng kinh tế liên quan đến.

- Chế độ phạt, dừng hợp đồng nếu không đảm bảo tiến độ.

- Thực hiện các biện pháp thi công theo đúng các giải pháp trong hồ sơ dự thầu.

- Việc thay đổi những cán bộ quản lý chủ chốt trong quản lý công trình phải được sự đồng ý của chủ đầu tư.

- Việc quyết định thay đổi, bổ sung thầu phụ cũng phải được chủ đầu tư đồng ý. Điều đó đã tạo điều kiện đảm bảo tiến độ chất lượng của dự án. Tuy nhiên đối với các dự án thuộc nguồn vốn nhà nước giai đoạn đấu thầu xây lắp thường tồn tại:

- Thời gian đấu thầu kéo dài ở cả giai đoạn lập hồ sơ mời thầu và lựa chọn quyết định nhà thầu.

- Lựa chọn nhà thầu không phù hợp (năng lực tài chính, tổ chức, thiết bị kém ...)

Điều đó dẫn đến nhiều dự án bị chậm tiến độ hiệu quả thấp. 

Mà nguyên nhân là do:

- Năng lực chủ đầu tư nhất là nhiều chủ đầu tư từ nguồn vốn nhà nước là các đơn vị không có chuyên môn về xây dựng (Bệnh viện, Trường học, công trình văn hóa thể thao, trụ sở cơ quan ...), năng lực các công ty tư vấn lập hồ sơ mời thầu, hội đồng chấm thầu hạn chế, thiếu chuyên nghiệp.

- Hiện tượng cục bộ, địa phương, nể nang trong tổ chức lựa chọn nhà thầu (kể cả đấu thầu và chỉ định thầu), còn hiện tượng tiêu cực "quân xanh, quân đỏ", cho các công ty "sân sau" của chủ đầu tư hoặc người quyết định đầu tư .

- Một số quyết định của Luật Đấu thầu chưa cụ thể, chưa phù hợp, rất dễ hiểu là chỉ chọn đơn vị có giá bỏ thầu rẻ nhất mà không tính đến đầy đủ năng lực đảm bảo tiến độ và chất lượng nhà thầu (có đủ 70 điểm kỹ thuật là được đấu thầu giai đoạn "đấu giá", đơn vị đạt 70 điểm khác đơn vị đạt 90 điểm là gì? Năng lực của cá nhân sẽ trực tiếp quản lý dự án là ai, kinh nghiệm và uy tín của họ thế nào năng lực thiết bị thi công của nhà thầu thế nào? đều quyết định đến tiến độ, chất lượng của dự án). Điều đáng lưu ý là hiệu quả kinh tế xã hội khi dự án hoàn thành vượt tiến độ là rất lớn (Thuỷ điện Sơn La vượt sớm 2 năm lợi hàng tỷ đô la, giải quyết nhu cầu về điện cho xã hội) điều này phải được xem xét toàn diện khi lựa chọn nhà thầu phù hợp với dự án (Năng lực quản lý, thiết bị, công nghệ thi công, năng lực tài chính ...) thậm chí dù giá chào thầu có cao hơn – Nhưng hiệu quả cuối cùng do đưa dự án vào sản xuất, sử dụng sớm lại có kết quả cuối cùng là tốt hơn.

4. Giai đoạn thi công xây lắp

Đây là giai đoạn quyết định thực hiện dự án đầu tư đảm bảo tiến độ, chất lượng và hiệu quả. Nó phụ thuộc vào các yếu tố sau:

4.1. Năng lực chủ đầu tư, tư vấn giám sát

Năng lực chủ đầu tư, tư vấn giám sát, nhà thầu thi công phù hợp với yêu cầu của dự án là một trong những yếu tố quyết định thực hiện dự án đạt hiệu quả tốt nhất. Về năng lực chủ đầu tư đã được đề cập đến trong nhiều cuộc hội thảo cũng như được sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật nhằm lựa chọn chủ đầu tư phù hợp nhất, đặc biệt liên quan đến quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư, trong thực tế đã chứng minh khi chủ đầu tư có năng lực, trình độ thực hiện tốt vai trò trách nhiệm, quyền hạn của mình, là ông chủ thực sự thì dự án đạt hiệu quả và tiến độ (như các báo cáo tham luận trình bày tại Hội thảo). Tuy nhiên các chủ đầu tư có nguồn vốn nhà nước vai trò "Ông chủ" thực sự chưa được thực hiện tốt. Một mặt do các quy định trách nhiệm còn thiếu cụ thể, nhiều chủ đầu tư không phải là người trực tiếp quản lý sử dụng khi dự án hoàn thành hoặc ngược lại nhiều chủ đầu tư là đơn vị trực tiếp quản lý dự án không có đủ năng lực, cán bộ chuyên môn (ngành Văn hóa, Thể thao, Y tế, Giáo dục ...) lại chưa thực hiện tốt việc thuê tư vấn quản lý dự án trong điều kiện ở Việt Nam đơn vị tư vấn quản lý dự án còn chưa chuyên nghiệp, chưa đủ mạnh trong khi phí quản lý dự án còn thấp (nhất là ở vùng sâu, vùng xa, công trình nhỏ lẻ...).

(Điều đáng chú ý nghiên cứu, áp dụng là ở các nước phát triển, các "ông chủ" thường thuê "đơn vị quản lý dự án chuyên nghiệp thực hiện".)

Đây là vấn đề không mới nhưng vẫn chưa thực hiện tốt. Vì vậy cần phân tích đánh giá đầy đủ để quản lý dự án được tốt hơn.

Một số vấn đề khác cần xem xét là các chế tài đối với các chủ đầu tư còn thiếu nghiêm minh, hàng loạt công trình tiến độ chậm, kéo dài đều không được xử lý nghiêm vì  đều đổ tại lý do khách quan...

 Riêng tư vấn giám sát (do chủ đầu tư thành lập hoặc thuê tư vấn giám sát) là yếu tố hết sức quan trọng để giám sát xử lý hiện trường và tư vấn cho chủ đầu tư. ở các nước lực lượng này được hết sức coi trọng tư vấn giám sát chuyên nghiệp tập hợp, lựa chọn những cán bộ – chuyên gia giỏi có nhiều kinh nghiệm để tham gia giám sát, quản lý dự án họ cũng được coi trọng, hưởng các chế độ đãi ngộ thích đáng xứng với trình độ năng lực cũng như thời gian làm việc ngày đêm bám sát hiện trường của họ.

ở Việt Nam tư vấn giám sát này chưa được coi trọng đúng mức kể cả tổ chức chuyên nghiệp, cán bộ quản lý cũng như tạo điều kiện thực hiện (kinh phí quản lý giám sát rất thấp nhất là các công trình nhỏ, lẻ, xa thành phố lại càng ít và không ai muốn nhận).

4.2. Năng lực nhà thầu thực hiện dự án: Với tốc độ đầu tư phát triển rất nhanh lực lượng các nhà thầu xây lắp trong nước phát triển rất mạnh với hàng vạn nhà thầu, đồng thời nhiều dự án cho đấu thầu quốc tế nên nhiều nhà thầu nước ngoài đã thắng thầu để thực hiện dự án ở Việt Nam. Vì vậy các nhà thầu đã thực hiện được nhiều công trình có ý nghĩa kinh tế, xã hội của đất nước. Từ các công trình công nghiệp đến các công trình phúc lợi xã hội, nhà ở. Tuy nhiên năng lực nhà thầu còn bất cập là nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp đến đảm bảo tiến độ các dự án.

- Đối với nhà thầu trong nước: Do tốc độ phát triển các doanh nghiệp quá nhanh do việc đăng ký hành nghề theo Luật Doanh nghiệp quá dễ dãi (riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã có hàng chục nghìn nhà thầu xây lắp) nên chất lượng nhà thầu còn hạn chế từ cán bộ quản lý, thiết bị thi công, trình độ tay nghề công nhân đến năng lực tài chính dẫn đến nhiều dự án bị đình trệ, sai phạm, sự cố, thi công kéo dài

- Đối với nhà thầu nước ngoài đã thắng thầu nhiều dự án ở Việt Nam khi các chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu có uy tín, kinh nghiệm, năng lực. áp dụng nhiều công nghệ, thiết bị tiên tiến nên đã thực hiện được các dự án có chất lượng, đạt tiến độ tốt (như đã thể hiện trong các bản tham luận tại Hội thảo). Tuy nhiên do bài toán chào thầu cũng như lựa chọn nhà thầu còn có nhiều bất cập liên quan đến nguồn vốn, phương thức lựa chọn nên nhiều dự án đặc biệt là dự án từ nguồn vốn nhà nước đã "chọn nhầm" các nhà thầu năng lực kém dẫn đến công trình thi công kéo dài hiệu quả đầu tư bị kém điển hình là các gói thầu xử lý thoát nước ở Thành phố Hồ Chí Minh, một số dự án đường bộ, dự án điện, xi măng...

Nguyên nhân của hiện tượng này đã đề cập trong nhiều hội thảo. Các bộ liên quan cũng đang nghiên cứu chuẩn bị sửa đổi bổ sung có thể nêu một số nguyên nhân chính như sau:

- Một là một số quy định trong luật đấu thầu còn chưa phù hợp  đặc biệt liên quan đến tiến độ – chất lượng – giá chào thầu, năng lực nhà thầu (tài chính, quản lý, kinh nghiệm).

- Hai là các hồ sơ mời thầu, các hợp đồng còn thiếu cụ thể, đặc biệt liên quan đến quy định về năng lực quản lý nhà thầu (Thông qua quy định các cá nhân giữ chức vụ quan trọng, có kinh nghiệm không được thay đổi nếu không được chủ đầu tư đồng ý). Đến chất lượng tiêu chuẩn thiết bị lắp đặt, đặc biệt là các chế tài xử lý khi vi phạm ( phạt, dừng thi công, hủy hợp đồng).

- Ba là thực hiện chế tài trong hợp đồng không nghiêm nhất là vốn nhà nước.

- Bốn là: năng lực nhà thầu còn yếu kém nhất là việc cấp đăng ký kinh doanh thành lập các doanh nghịêp hoạt động xây dựng còn quá dễ dãi nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện năng lực nhân sự, tài chính, thiết bị ... vẫn được hoạt động (TP. Hồ Chí Minh có trên hai vạn doanh nghiệp hoạt động xây dựng mà Sở Xây dựng không được tham gia quyết định cho phép thành lập nên không quản lý được). Về nhân lực lao động do công tác đào tạo còn mất cân đối thừa thầy thiếu thợ nhất là công nhân có tay nghề cao ở tất cả các ngành nghề, số lao động không được đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao, các trường đào tạo nghề xây dựng không tuyển được công nhân học nghề do chính sách đãi ngộ. Công nhân ngành xây dựng còn thấp.

4.3. Đảm bảo nguồn vốn thực hiện dự án. Đặc biệt với các dự án từ nguồn vốn nhà nước. Mặc dù đã được đề cập và đưa ra nhiều quy định. Tuy nhiên hiện tượng phân bổ vốn dàn trải vẫn phổ biến, trình tự thủ tục cấp vốn, thanh toán, chậm chễ dẫn đến tiến độ thi công kéo dài chỉ trừ một số ở dự án trọng điểm còn tuyệt đại đa số dự án triển khai chậm chễ do nguồn vốn thực hiện dự án không đủ, chậm thanh toán, quyết toán. Mặt khác trong điều kiện biến động giá cả của thị trường, không có phương án cũng như biện pháp xử lý kịp thời dẫn đến hậu quả làm chậm tiến độ thi công trên công trình.

4.4. Cung cấp vật tư thiết bị. Đặc biệt từ nước ngoài không đồng bộ, chậm tiến độ từ sản xuất, vận chuyển đến công trình là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian thực hiện.

4.5. Các chế tài thưởng phạt không đủ, không nghiêm dẫn đến kéo dài tiến độ dự án.

- Đối với chủ đầu tư dự án (đặc biệt vốn nhà nước) thanh toán chậm chễ cho nhà thầu là hiện tượng phổ biến nhưng hầu như  không nhà thầu nào nhận được lãi trả chậm của chủ đầu tư. Chưa thấy chủ đầu tư nào bị phạt do điều hành dự án kéo dài chậm tiến độ.

- Đối với nhà thầu:  Số lượng nhà thầu bị phạt do chậm tiến độ "Chỉ đếm trên đầu ngón tay" trên hàng vạn dự án triển khai ở Việt Nam. Gần đây chỉ có một số chủ đầu tư ở Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh đã tiến hành xử phạt các nhà thầu chậm tiến độ bằng hình thức chấm dứt hợp đồng, phạt tiền, góp phần đảm bảo tiến độ dự án (Đã Nẵng xử phạt công trình giao thông, công trình nhà thi đấu... thành phố Hồ Chí Minh xử phạt các nhà thầu cải tạo hệ thống thoát nước,  Tổng Công ty Xây dựng số 1 chấm dứt hợp đồng cung cấp lắp đặt thiết bị nhà máy Thuỷ điện với nhà thầu chậm tiến độ, Ban Quản lý dự án Cần Thơ chấm dứt hợp đồng với nhà thầu làm đường dẫn... Nhiều câu hỏi đặt ra là tại sao các chế tài trong hợp đồng kinh tế khi "chậm tiến độ", không được xử lý nghiêm minh, đặc biệt là dự án đầu tư xây dựng từ nguồn vốn nhà nước, phải chăng chủ đầu tư là ông "chủ hờ" nên không "của đau con xót", phải chăng có sự nể nang với các nhà thầu cùng địa phương, cùng một cơ quan quản lý nhà nước, thậm chí vì những lý do "tế nhị", nhận "hoa hồng", "hưởng phết phẩy" nên không thể xử lý ... Điều đó còn do công tác thanh tra, kiểm toán chưa thực hiện tốt, không phát hiện thậm chí bỏ qua việc kiểm tra các chế tài cùng đều đổ lỗi cho "khách quan".

Trong hợp đồng kinh tế các chế tài có yếu tố rất quyết định đến tiến độ, hiệu quả của dự án. Thực tế trên phải thấy rằng các chế tài không được quan tâm đúng mức từ các quy định của hợp đồng đến thực hiện trong thực tế.

III. Giai đoạn đưa dự án vào sản xuất, sử dụng

            Đưa dự án hoàn thành từng phần, đồng bộ nhằm đẩy mạnh tiến độ thi công tăng hiệu quả đầu tư.

            Bài học kinh nghiệm ở nhiều dự án đầu tư xây dựng trong và ngoài nước nhiều chủ đầu tư đã làm tốt khâu chuẩn bị cho giai đoạn sử dụng, vận hành làm tăng nhanh khả năng thu hồi vốn, hiệu quả đầu tư, nhà cao 101 tầng TAIPEI- Đài Loan làm 11 tầng đã đưa vào khai thác sử dụng 90 tầng trên, hoàn thành sử dụng sau gần 2 năm. Các công trình Thủy điện, nhiệt điện khai thác từng tổ máy, các khu đô thị lớn khai thác từng khu vực, như Linh Đàm, Phú Mỹ Hưng...với điều kiện phải "đồng bộ" đảm bảo cho người sử dụng.

            Tuy nhiên hiện tượng không đồng bộ, không đưa vào sử dụng đúng thời hạn ở Việt Nam nhất là vốn nhà nước còn khá phổ biến. Đó là các nhà máy nước hoàn thành nhưng thiếu đường ống dẫn đến hộ tiêu thụ. Nhà máy điện làm xong không có đường dẫn điện, hồ chứa nước làm xong không có đường dẫn nước, cầu làm xong không có đường dẫn, nhà máy, khu công nghiệp khu đô thị làm xong thiếu hệ đầu nối hạ tầng cơ sở (đường điện, cấp thải nước...) hạ tầng xã hội không có hoặc làm chậm (nhà ở công nhân, công trình văn hóa, y tế, giáo dục, thương mại ...)

            Hậu quả rõ ràng là dự án chậm đi vào sử dụng hoặc sử dụng không hết công suất gây lãng phí, hiệu quả thấp. Nguyên nhân chủ yếu thuộc vào chủ đầu tư và người quyết định đầu tư (đầu tư không đồng bộ, thiếu sự phối hợp, khảo sát không đầy đủ).

IV. Nguyên nhân

            Qua thực trạng thời gian thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam. Chúng tôi chỉ nêu được những vấn đề chính thông qua các giai đoạn thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam, điều nổi bật là hầu hết các dự án đầu tư ở Việt Nam trong đó chủ yếu là từ nguồn vốn nhà nước đều kéo dài, chậm tiến độ.

1. Đối với các dự án làm đạt và vượt tiến độ hiệu quả kinh tế xã hội tuy chưa nhiều nhưng có thể rút ra bài học đó là:

- Làm tốt công tác chuẩn bị dự án từ lựa chọn chủ đầu tư, khảo sát, lập và thẩm định dự án tiền khả thi, khả thi, chuẩn bị nguồn vốn đảm bảo thực hiện qua các giai đoạn thi công.

- Trong giai đoạn thực hiện đầu tư: Là việc thực hiện tốt khâu lựa chọn nhà thầu tư vấn thiết kế, giám sát và thi công xây lắp. Thực hiện việc điều hành chế độ giám sát chặt chẽ nghiêm túc, khoa học từng công đoạn của tiến độ theo hợp đồng kinh tế. Thực hiện chế tài nghiêm minh theo các quy định ràng buộc trong hợp đồng. Việc đảm bảo nguồn vốn thanh quyết toán kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho nhà thầu. Cho đời sống của người lao động trên công trường (kể cả chế độ tiền lương, đời sống văn hóa tinh thần).

- Trong giai đoạn đưa vào vận hành sử dụng: Chuẩn bị điều kiện đồng bộ, liên quan đến lực lượng chuẩn bị sản xuất, sử dụng, liên quan đến việc đảm bảo đấu nối hệ thống hạ tầng, kỹ thuật và đồng bộ công trình hạ tầng xã hội.

2. Đối với các dự án kéo dài chậm tiến độ đã nêu khá nhiều yếu tố ở các giai đoạn. Chúng tôi xin được nêu một số nguyên nhân chủ yếu sau:

2.1. Nguyên nhân về cơ chế chính sách, quy định của pháp luật còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực tế thể hiện:

- Việc quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng chung, quy hoạch vùng, quy hoạch chi tiết phải được đi trước một bước làm cơ sở cho việc triển khai các dự án không được chú ý đúng mức vốn và lực lượng làm quy hoạch còn bất cập. Vì vậy nhiều quy hoạch làm chậm, chưa phủ kín ở hầu hết các địa phương (ngay Hà Nội đến 2012 mới có thể cơ bản hoàn thành quy hoạch... vùng còn quy hoạch chi tiết đến 2015 liệu có xong?)

- Các quy định liên quan đến công tác đền bù giải phóng mặt bằng mặc dù đã sửa đổi nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều vướng mặc, rất ít công trình đảm bảo giải phóng mặt bằng đúng tiến độ. Việc thực hiện “mặt bằng sạch” rất ít dự án được thực hiện. Đặc biệt là vai trò của các địa phương: với trách nhiệm là Chủ tịch Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng với sự tham gia của nhiều ban ngành, những hoạt động còn thiếu chuyên nghiệp (nhất là các hội đồng các quận huyện), nhiều cán bộ hoạt động kiêm nhiệm, khi làm việc lại trực tiếp va chạm đến quyền lợi của người dân (là công việc không phải ai cũng muốn làm – nhiều người "bị" phân công) lại đòi hỏi am hiểu nhiều kiến thức của pháp luật. Vì vậy ở hầu hết các địa phương đang thiếu lực lượng cán bộ làm công tác này, mặt khác theo phản ánh của nhiều địa phương kinh phí cho hoạt động này còn thấp chưa đáp ứng cho công sức và khuyến khích người làm lĩnh vực này dẫn đến tiến độ kéo dài nhất là giai đoạn đo đạc, kiểm đếm xác định nguồn gốc và thống nhất giá đền bù.

- Các quy định của Luật đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư liên quan đến chủ đầu tư, lựa chọn nhà thầu tư vấn, giám sát, thi công xây lắp... còn nhiều điểm, chồng chéo chưa phù hợp (Hiện nay Bộ Xây dựng đang tiến hành rà soát, sửa đổi bổ sung, phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam đã có Hội thảo kiến nghị rất chi tiết, nhiều điểm bổ sung, sửa đổi các luật này, Đoàn giám sát của UBTVQH cũng đã có nhiều kiến nghị nhưng chỉ mới sửa và điều chỉnh một số điều cấp bách trong luật sửa đổi một số điều liên quan đến các luật trong lĩnh vực xây dựng). Việc cho phép thành lập các doanh nghiệp lĩnh vực xây dựng theo Luật Doanh nghiệp còn chưa phù hợp, liên quan đến xây dựng các quy định cụ thể về doanh nghiệp hoạt động xây dựng là loại hình kinh doanh có điều kiện.

- Các chế tài chưa đủ mạnh, đủ nghiêm minh để sử lý các sai phạm của người quyết định đầu tư, chủ đầu tư và các chủ thể khác như các nhà thầu tư vấn, giám sát, thi công, cung cấp thiết bị. Kể cả các cơ quan có liên quan đến việc thẩm tra, quyết định đầu tư, cấp phép, thanh tra...

Chưa thực hiện việc kiểm toán các công trình xây dựng thực hiện vốn nhà nước, không chỉ kiểm toán số liệu tài chính, chế độ thanh quyết toán mà còn kiểm toán cả hiệu quả đầu tư của dự án nữa.

2.2. Nguyên nhân về trình độ năng lực của các chủ thể tham gia dự án từ người quyết định đầu tư, chủ đầu tư các nhà thầu tư vấn, xây lắp, còn hạn chế, bất cập so với tốc độ phát triển nhanh, quá nóng. Kế hoạch bố trí vốn, riêng từ nguồn vốn NSNN đã có bình quân hàng năm trong 10 năm qua là 25.000 dự án dẫn đến. Sự phân tán, dàn trải năng lực chủ đầu tư nhiều dự án yếu; lực lượng tư vấn quản lý dự án, tư vấn giám sát quá mỏng thiếu năng lực chuyên nghiệp, lực lượng nhà thầu thi công xây lắp phát triển quá nhiều  (TP. Hồ Chí Minh trên 1 vạn nhà thầu) dẫn đến nhiều nhà thầu không đủ năng lực quản lý, năng lực thiết bị, năng lực tài chính).

3. Chế độ thanh tra, kiểm tra, giám sát còn hình thức kém hiệu quả, sử lý sai phạm không nghiêm ở tất các giai đoạn và những người có trách nhiệm và tham gia các công đoạn của dự án.

V. Kiến nghị

            1. Tập trung nguồn vốn, nhân lực hoàn thành các quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch phân khu chi tiết làm cơ sở cho việc quyết định triển khai dự án.

            2. Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến đầu tư xây dựng đặc biệt là luật đầu tư xây dựng, luật đấu thầu và đất đai trong đó. Bổ sung sửa đổi, xây dựng các quy định liên quan nhằm giảm tối đa các thủ tục hành chính trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư.

            - Sửa đổi các quy định của Luật Doanh nghiệp đối với việc công nhận, cấp giấy phép đăng ký kinh doanh hoạt động xây dựng là loại hình kinh doanh có điều kiện.

            - Sửa đổi bổ sung các quy định nhằm đảm bảo công tác đấu thầu có hiệu quả, thực chất nhằm lựa chọn các nhà thầu phù hợp với từng loại dựa án. Thực hiện nghiêm các quy định về chế độ Hợp đồng kinh tế theo cơ chế thị trường đặc biệt là các chế tài vi phạm.

            - Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tham gia dự án đầu tư xây dựng đặc biệt vai trò người quyết định đầu tư chủ đầu tư, các nhà thầu tư vấn, giám sát, xây lắp.

            - Quy định chi tiết, cụ thể đảm bảo hài hòa lợi ích nhà nước – người dân và doanh nghiệp trong việc triển khai dự án liên quan đến công tác đền bù giải phóng mặt bằng cho từng loại dự án (Quốc phòng an ninh, phúc lợi công cộng, kinh tế) đặc biệt liên quan đến chi phí đền bù, chính sách tái định cư, tổ chức thực hiện) phát triển mạnh các dự án nhà nước thực hiện "mặt bằng sạch", đã hoàn thành hệ thống hạ tầng cơ sở trước khi vào đấu thầu dự án.

            3. Sớm thông qua Luật đầu tư công nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án đầu tư từ nguồn vốn nhà nước trong đó tập trung các quy định chế độ trách nhiệm của các chủ thể tham gia quyết định và triển khai quản lý dự án theo hướng:

            - Vốn nhà nước tập trung vào đầu tư các công trình phục vụ công cộng mà các nguồn vốn khác không thể tham gia.

            - Xử lý quyết liệt hiện tượng đầu tư dàn trải, trong đó cần sửa đổi bổ sung về phân cấp đầu tư, điều kiện, ghi kế hoạch phân bổ vốn...

            - Chế độ trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến sự chậm trễ tiến độ của dự án với hiệu quả đầu tư.

            -  Chế độ kiểm toán bắt buộc mọi dự án sử dụng vốn nhà nước – kiểm toán toàn diện hiệu quả đầu tư (không chỉ kiểm toán số liệu thanh quyết toán).

            4. Xây dựng, bổ sung, sửa đổi các cơ chế chính sách nhằm nâng cao quyền lợi của cán bộ công nhân xây dựng là loại ngành nghề đặc biệt (loại I) làm ngoài trời, phụ thuộc thời tiết, làm ca, xa nhà ..., tăng phí quản lý, giám sát (hiện quá thấp so với các nước).

            5. Thực hiện có hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý các sai phạm trong thực hiện dự án đầu tư xây dựng. Tổng kiểm tra, rà soát các doanh nghiệp hoạt động xây dựng, kiên quyết thu hồi giấy phép đối với các doanh nghiệp không đảm bảo điều kiện theo luật.

            6. Dành nguồn vốn kinh phí thỏa đáng nâng cao năng lực các nhà thầu xây dựng của Việt Nam trong lĩnh vực đấu thầu. Dành ưu tiên kinh phí mua sắm rrang thiết bị hiện đại, đào tạo công nhân lành nghề, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học trong thiết kế, thi công công trình xây dựng.

            Trên đây là một số vấn đề chính nêu lên thực trạng và giải pháp thời gian thực hiện dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam. Chúng tôi mong được sự đóng góp ý kiến của các đại biểu thông qua các bản tham luận và phát biểu ý kiến tại Hội thảo. Trên cơ sở ban tổ chức sẽ tập hợp tổng kết, kiến nghị các giải pháp đến các cơ quan hữu quan nhằm góp phần rút ngắn thời gian đầu tư, đẩy mạnh tiến độ thực hiện các dự án, nhằm tăng hiệu quả đầu tư góp phần quan trọng hiệu quả kinh tế, xã hội trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

* Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011- 2015 tại Đại hội Đảng XI.

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o