BÌNH LUẬN DỰ THẢO LUẬT THUẾ NHÀ, ĐẤT
|
Khó mà gọi cảnh quan kiến trúc đô thị thế này là … “đẹp”! |
TS Phạm Sỹ Liêm
Phó Chủ Tịch Tổng hội
Xây dựng Việt Nam
Về mục đích lập pháp
Mục đích lập pháp cần được xác định rõ ràng, chuẩn xác để xem luật có hợp hiến và đáp ứng đúng nhu cầu lập pháp, và để đánh giá cơ cấu và nội dung của luật có phù hợp với mục đích lập pháp hay không.
Khác với thông lệ lập pháp nhiều nước, Luật Việt Nam không có điều về mục đích ban hành luật. Tuy vậy trong tờ trình Chính phủ, Bộ Tài chính nêu lên 5 mục tiêu xây dựng Luật (không kèm giải thích) là:
1. Tăng cường quản lý nhà nước đối với nhà, đất;
2. Khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả;
3. Góp phần hạn chế đầu cơ nhà, đất;
4. Khuyến khích thị trường bất động sản phát triển lành mạnh;
5. Động viên hợp lý sự đóng góp của chủ sở hữu nhà và người sử dụng đất vào ngân sách nhà nước, nhất là người có nhiều nhà đất.
Mục tiêu 2 và 5 chỉ đạt được khi thuế suất không quá bé. Mục tiêu3 chưa rõ: không có định nghĩa về đầu cơ nhà đất, nếu chỉ là nhà đất để không chưa sử dụng thì cũng có nhiều nguyên nhân chứ không chỉ có nguyên nhân đầu cơ, vả lại có bao nhiêu người đầu cơ nhà đất và tác hại đến đâu mà phải đánh thuế hàng chục triệu người để hạn chế? Chú: Tại nhiều nước, chính quyền và nhiều khi cả tư nhân được phép mua đất để dành chờ phát triển, Pháp gọi là dự trữ đất (réserves foncières), các nước khác gọi là kinh doanh ngân hàng đất ( land banking). Tại khu vực đô thị đã quy hoạch, để chống hiện tượng đầu cơ đất đai thì Pháp áp dụng quyền tiên mại (droit de préemption). Tại nước ta nhiều người mua số lượng lớn đất của nông dân để chờ thời cơ nhưng vẫn cho nông dân cày cấy nên không áp thuế nhà, đất được! Vả lại thuế suất thấp như vậy thì dù có đánh thuế luỹ tiến thì cũng có ngăn chặn được không? Mục tiêu 4 cũng không rõ lắm, vì nhiều lắm cũng chỉ là hạn chế chuyển nhượng nhà, đất chui. Mục tiêu 5 thì rõ ràng nhưng hiệu quả đến đâu còn phụ thuộc vào lượng tiền thuế thu được có đáng kể không.
Tờ trình cũng nêu 2 yêu cầu đối với Luật: khắc phục hạn chế của chính sách thuế nhà, đất và tiếp cận với thông lệ quốc tế. Riêng đối với yêu cầu 2 thì lại chưa giới thiệu thông lệ quốc tế để tiện so sánh.
Loại thuế này các nước thường gọi là thuế tài sản (property tax), là một loại thuế địa phương đánh vào giá trị tài sản (nhà, đất, có khi cả trang sức đắt tiền, chứng khoán…), mục đích chính là tăng cường ngân sách địa phương, nhất là ngân sách các đô thị, và tái phân phối thu nhập quốc dân cho công bằng, cho nên có nước xem là một dạng thuế thu nhập. Nhà ở và đất ở sở dĩ có giá trị, một phần là nhờ có dịch vụ hạ tầng kinh tế và xã hội do xã hội cung ứng bằng cách thu tiền của dân.
Đối với đô thị, đây là nguồn thu ngân sách quan trọng, thường chiếm khoảng 30% hoặc nhiều hơn, tuỳ theo tình hình kinh tế của đô thị (đối với đô thị mà hoạt động kinh doanh không sôi nổi lắm thì tỷ lệ đó thậm chí có thể đến 80%!). Nguồn thu từ thuế nhà đất rất ổn định, ít phụ thuộc vào các biến động thị trường, thường được chi cho các dịch vụ hạ tầng kinh tế và xã hội như thoát nước, vệ sinh, hè đường, công viên cây xanh, chiếu sáng, giáo dục, y tế, cảnh sát…Khi thiếu kinh phí chi cho các dịch vụ đô thị nói trên thì chính quyền tăng thu loại thuế này, và vì người dân hiểu rõ mục đích sử dụng nên họ chấp nhận và giám sát việc sử dụng. Để thực hiện công bằng xã hội, giúp người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác trong việc hưởng thụ các dịch vụ công cộng thiết yếu, Nhà nước phải thu nhiều hơn từ những người giàu.
Đô thị nước ta đang phát triển nhanh, rất thiếu thốn kết cấu hạ tầng. Lương công chức, nhất là các ngành giáo duc và y tế còn rất thấp; từ lâu chính phủ muốn cải thiện chế độ tiền lương nhưng ngành tài chính kêu là ngân sách eo hẹp. Trong khi đó thu nhập bình quân của người dân được nâng cao khá nhanh, cứ 10 năm lại tăng gấp đôi. Đó là điều kiện cần và đủ để Nhà nước hoàn thiện chính sách thuế nhà đất, tuy sớm hình thành từ khi đổi mới với sự ban hành Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1992 nhưng ít được chú trọng.
Trên đây là mục đích của thu thuế nhà, đất theo hiểu biết của tôi, khá rõ ràng và tập trung chứ không mang tính “bách khoa” như trong tờ trình của Bộ Tài chính và ý kiến của nhiều chuyên gia các ngành khác. Mục đích là như vậy nhưng do trước đây tuy thu thuế đất nhưng thu không đáng kể, còn thuế nhà thì chưa thu nên cách thu còn phải đơn giản (thuế tài sản các nước khá phức tạp), thuế suất cũng chưa cao để người thu và người nộp có điều kiện làm quen với sắc thuế này. Về yêu cầu này tôi hoàn toàn nhất trí với Dự thảo Luật. Sau khi thi hành có ít nhiều kinh nghiệm, Quốc hội sẽ bổ sung và sửa đổi cho gần gũi hơn nữa với thông lệ quốc tế, tiến gần hơn nữa tới mục đích cuối cùng của việc ban hành Luật này.
Thế nhưng mục đích nói trên đối với thuế nhà ở có lẽ không đạt được vì diện miễn giảm quá rộng (tôi xin bình luận ở phần sau).
Về đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế là nhà ở và đất ở là hợp lý. Nên cân nhắc việc đánh thuế vào đất kinh doanh phi nông nghiệp vì hai lẽ: đất là một nguồn vốn để sản xuất kinh doanh, mà kinh doanh thì đã phải chịu thuế, và đất kinh doanh phi nông nghiệp là đât mà Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thu tiền thuê đất, nếu thấy còn thấp thì tăng thêm tiền đó chứ không nên thu thuế đất nữa vì người cho thuê mới là người phải đóng thuế, còn nếu muốn thu thì cũng không nên thu “hồi tố”để trở thành một rủi ro chính sách cho người kinh doanh.
Đối tượng nhà ở được miễn giảm quá rộng. Chỉ nên miễn thu đối với nhà cấp 4 và nhà đất của một số người thuộc diện chính sách. Còn lấy giá trị nhà dưới 600 triệu đồng để miễn thu là không phù hợp vì không phân biệt mức giàu nghèo của các vùng, vả lại con số đó sẽ nhanh chóng bị lỗi thời. Xin lưu ý rằng nộp thuế không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của công dân, vì có đóng thuế thì công dân mới ý thức được mình có quyền yêu cầu các đại biểu dân cử phải quan tâm đến các nhu cầu chính đáng của mình.
Về thuế suất
Việc áp dụng một biểu thuế suất chung cả nước và đánh thuế luỹ tiến khi vượt mức là hợp lý. Đối với thuế đất thì thuế suất trước mắt như dự thảo là được nhưng đối với nhà thì không nên áp dụng chung một thuế suất mà nên có thuế suất tăng dần theo cấp nhà ( tiêu chuẩn do Bộ Xây dựng quy định) chứ không chỉ luỹ tiến theo diện tích nhà.
Khung giá đất để áp thuế như dự thảo là hợp lý và đơn giản, còn khung giá nhà thì để cho từng địa phương tự quy định cho phù hợp với mức thu nhập bình quân của mỗi khu vực ( đô thị, nông thôn, đồng bằng, trung du, miền núi v.v.).
Thuế suất đối với nhà trong dự thảo nói chung trước mắt phù hợp với nhà nông thôn, quá thấp đối với nhà đô thị là nơi có thu nhập bình quân cao lại đang cần nhiều tiền để phát triển hạ tầng, không thể dựa mãi vào vốn ODA hay phân bổ vốn của Trung ương. Thuế tài sản tại các nước còn gọi là thuế phần nghìn (millage tax) vì thuế suất được tính theo tỷ phần nghìn giá trị tài sản (ở Hoa kỳ có thể đến vài chục phần nghìn) trong khi các sắc thuế khác đánh vào giá trị (ad valorem tax) đều đánh theo phần trăm. Thế nhưng thuế suất nhà, đất trong Dự thảo Luật lại tính theo phần vạn(!), có thể trước mắt tạm thời phù hợp với nhà, đất nông thôn nhưng quá thấp đối với nhà đô thị, vì vậy nên xem xét để tăng thêm. Vả lại chẳng nên tham khảo tỷ lệ huy động thuế đất trước đây, lúc đang phải ưu tiên cho chính sách khoan thư sức dân sau chiến tranh, trong khi tình hình mọi mặt đất nước ngày nay đã khác trước nhiều rồi.
Về thu thuế
Vấn đề gộp nhà, đất lại để tính thuế luỹ tiến có vẻ hợp lý nhưng cách thu lại quá phức tạp. Đề nghị trước mắt chỉ thu thuế đối với từng nhà đất riêng rẽ, kể cả thu luỹ tiến. Như vậy đỡ phức tạp cho nhiều người có nhà đô thị nhưng vẫn có nhà nông thôn tuy chẳng giàu có gì. Những lần sửa đổi bổ sung luật về sau sẽ xem xét vấn đề này kỹ hơn.
Không có nhu cầu gì để phải ổn định giá tính thuế trong vòng 5 năm vì hàng năm UBND cấp tỉnh đều công bố khung giá đất và khung giá nhà nên việc áp thuế không khó khăn gì, nhất là khi dùng công nghệ thông tin.
Nên sửa lại khoản 2 Điều 8:” Người nộp thuế đăng ký, khai, tính và nộp thuế tại cơ quan thuế cấp huyện…” thành” Cơ quan thuế cấp huyện tiếp nhận đăng ký, khai, tính và thu thuế…”, để tránh hiểu lầm là người dân nhất thiết phải đến trụ sở cơ quan thuế: cơ quan thuế có thể về làm việc theo hẹn tại phường, xã để tiện cho dân, và nơi nào có điều kiện thì cũng có thể thu qua tài khoản cá nhân.
Một vài vấn đề kỹ thuật
Tuy khoản 2 Điều 4 của Dự thảo quy định rằng “việc nộp thuế không phải là công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất hợp pháp của người nộp thuế”, nhưng dù sao đó cũng là bằng chứng gián tiếp của các quyền đó. Vì vậy không được phép sơ hở hay không rõ ràng trong việc thu thuế để dễ bị lợi dụng.
Đất của chung cư rộng bao nhiêu? Chỉ là đất trong phạm vi móng nhà hay còn rộng hơn và rộng đến đâu? Bộ Xây dựng nên làm rõ vấn đề này.
Đối với đất ở và nhà ở tuy trong khu vực nông thôn (xã) nhưng lại nằm sát ven đường quốc lộ và tỉnh lộ nên áp dụng thuế suất nào? Đây là hiện tượng đô thị hoá không mong muốn, nên hạn chế, vì vậy nên áp dụng thuế suất gần với thuế suất cho đô thị.
Nhà ở trên đất nông nghiệp như trong trang trại, trong vườn rau, vườn cây ăn quả v.v. thị tính thuế đất ở như thế nào?
Ngày 30 tháng 8 năm 2009
|