THIÊN TAI – PHÒNG CHỐNG THẾ NÀO?
|
Cơn bão lớn Ketsana (bão “số 9”) tràn vào miền Trung (ảnh trên) sau khi đã tàn phá miền Bắc Philippines (ảnh dưới). |
Tô Văn Trường
Một đề tài tưởng chừng rất quen thuộc nhưng nhắc lại không bao giờ thừa bởi lẽ thiên tai là đe dọa thường xuyên nhiều lúc vượt cả tầm kiểm soát của con người. Trên thế giới, ngay cả nước Mỹ cường quốc hàng đầu về kinh tế nhiều lúc cũng điêu đứng vì thiên tai, nhất là bão lũ. Đối với nước nghèo như Việt Nam lại nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, bão lũ xảy ra thường xuyên, vấn đề này càng trở nên đặt biệt nghiêm trọng. Nhà nước đã có nhiều giải pháp và bài học kinh nghiệm phòng tránh thiên tai nhưng xem ra đây vẫn là một thách đố lớn! Chỉ tính riêng trong 12 năm gần đây (1996-2008) bão lũ, hạn hán, các loại thiện tai khác đã làm chết 9.600 người và thiệt hại tài sản ước tính chiếm 1,5% GDP/năm.
Hàng nghìn năm trước, cha ông ta đã xác định thiên tai, trong đó do nước luôn là hiểm họa lớn nhất đối với con người “thủy, hỏa, đạo, tặc”. Trong lịch sử phòng chống và giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam luôn được coi là cuộc đấu tranh sinh tồn , gắn liền quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Một trong các biện pháp phòng tránh thiên tai có hiệu quả là xây dựng các hệ thống công trình thủy lợi. Trong 50 năm qua, nhà nước và nhân dân đã xây dựng đươc 800 hồ chứa lớn và vừa, 3.500 hồ chứa có dung tích trên 1 triệu m3, 10.000 trạm bơm, 5.700 km đê sông và 3.000 km đê biển. Tuy nhiên, trong công tác phòng tránh thiên tai vẫn còn bộc lộ những yếu kém như bị động, nặng về giải quyết tình huống khi có thiên tai, năng lực phản ứng còn chậm, cơ sở hạ tầng yếu kém, công tác dự báo, cảnh báo chưa theo kịp yêu cầu của thực tế, công tác tổ chức cứu trợ hiệu quả chưa cao. Một số hệ thống công trình hồ chứa ở miền trung và trên lưu vực sông Đồng Nai khi xây dựng không quan tâm đến dung tích phòng cắt lũ và lưu lượng xả tối thiểu xuống hạ du duy trì dòng chảy môi trường vv…
Do biến động ngày càng bất thường của của khí hậu toàn cầu cũng như tác động xấu của con người vào tự nhiên, thiên tai trên phạm vi toàn cầu đã, đang và sẽ xảy ra với tần suất nhiều hơn, phức tạp hơn và cường độ mạnh mẽ hơn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, Việt Nam đã sớm tham gia cùng cộng đồng quốc tế (công ước, nghị định thư) trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai. Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng đề án kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai ứng phó và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu. Nhiều bộ, ngành và địa phương đã và đang triển khai xây dựng thực hiện chiến lược quốc gia về phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, đề án giảm thiểu rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng và đang làm thí điểm nâng cao năng lực về quản lý rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu cho 3 tỉnh Cao Bằng, Bình Thuận và Cần Thơ. Tháng 7/2009 vừa qua, Chính phủ và các ngành tổ chức diễn tập phòng tránh thiên tai cấp vùng tại Trà Vinh dưới sự giám sát của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải là ví dụ điển hình về sự phối hợp “tác chiến” giữa các ngành, các cấp.
Để phòng tránh thiên tai ngoài các biện pháp công trình (biện pháp cứng) các biện pháp phi công trình (biện pháp mềm) phải được quan tâm đúng mức như tăng cường tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến về dự báo bão, mưa lũ của thế giới để chủ động cảnh báo, phòng tránh. Tăng cường hệ thống thông tin thông suốt đến cấp xã, thôn và ngư dân cùng với việc xây dựng các khu trú bão an toàn cho tàu thuyển và cho người dân nhất là vùng còn nghèo khó. Duy trì, trồng rừng đầu nguồn để điều tiết và làm chậm lũ. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cây trồng, xây dựng các phương án theo các kịch bản với lộ trình cụ thể. Rừng ngập mặn ven biển vừa đa dạng sinh học vừa là lá chắn hữu hiệu kết hợp với đê biển để đối phó với mực nước biển dâng. Bài toán vận hành hệ thống hồ chứa cần có “nhạc trưởng” chỉ huy để đảm bảo tính hệ thống và đa mục tiêu.
Công tác phòng tránh thiên tai từ khâu chuẩn bị, đến đối phó trực tiếp khi xảy ra và khắc phục hậu quả là công việc của cả hệ thống chính trị và cộng đồng dân cư. Trong quy hoạch phát triển dài hạn, các hệ thống cơ sở hạ tầng phải xét đến yếu tố biến đổi khí hậu, tiêu chuẩn kỹ thuật, trước mắt và lâu dài tùy theo khu vực, hoàn cảnh kinh tế để có các giải pháp căn cơ, khoa học và thực tế.
Thiên tai, nhất là bão lũ đối với Việt Nam là vấn đề xẩy ra thường xuyên và diễn biến ngày càng phức tạp đòi hỏi phải luôn cập nhật, tiếp cận với thông tin, khoa học công nghệ của thế giới và kinh nghiệm của Việt Nam. Nếu thống kê các dự án nghiên cứu (kể cả từ nguồn vốn không hoàn lại) của các tổ chức quốc tế đã thực hiện nhiều năm qua ở Việt Nam thấy rõ phần lớn các đề xuất, kiến nghị của chuyên gia quốc tế vẫn chưa được đánh giá, sử dụng đúng mức, đó là sự lãng phí không chỉ về tiền bạc mà còn là chất xám.
Đất nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ với các thời cơ, vận hội và thách thức mới. Tốc độ và thành tựu về khoa học công nghệ, trong đó khoa học quản lý đóng vai trò “khoa học mẹ”! Cỗ máy trong hệ thống chính trị cần được nâng tầm cùng với thời đại để đối phó với thiên tai, huy động sức mạnh toàn dân, từ trung ương đến địa phương để đất nước phát triển bền vững.
|