» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Như thế nào là Trạm bơm lớn, trạm bơm nhỏ? [29/01/2024]
Quyết định số 20/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Mã thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 21/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Hương thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 22/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Đồng Nai thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
 Số phiên truy cập

81323837

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Chính sách mới về thủy lợi phí và những điều cần quan tâm. [28/3/09]
Quan niệm “ Miễn” hay “Miễn, Giảm” thủy lợi phí : Nội dung cũ thể của Nghị định 154 và thông tư hướng dẫn đã khẳng định nông dân vẩn phải trả phí dịch vụ thủy lợi nội đồng

CHÍNH SÁCH MỚI VỀ THỦY LỢI PHÍ

VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN QUAN TÂM

 

                                                                           Nguyễn Xuân Tiệp - CCWR  

 

·         Chính sách Thủy lợi phí

 

Từ năm 1962 Chính phủ đã ban hành Nghị định 66-CP “ Về …điều lệ thủy lợi phí “, hơn 20 năm sau ( 1984 ) Chính phủ đã ban hành Nghị định 112 HDBT “ Về Thủy lợi phí “, thay cho Nghị định 66-CP. Gần 20 năm sau ( 2003 ) Chính phủ đã ban hành Nghị điinh 143/2003/NĐ-CP ( nội dung về thủy lợi phí ) thay thế Nghị định 112 .Bốn năm sau đó ( 2007 ) Nghị định 154 được ban hành, thay thế cho Nghị định 143 và chỉ đúng 1 năm sau đó ( 2008 ) đã có Chính phủ đã ban hành Nghị 115 để hay thế Nghị định 154.

 Như vậy hơn 40 năm qua ( 1962 – 2009 ) chính sách thủy lợi phí ở nước ta đã 4 lần thay đổi và lần thứ 4 đã có sự thay đổi cơ bản về việc miễn, giảm thủy lợi phí, nhưng vẩn thể hiện một cách nhất quán quan điểm bao cấp trong dịch vụ tưới cho nông dân sản xuất lương thực, theo phương châm “ nhà nước và nhân dân cùng làm “ Tuy nhiên mức độ bao cấp của nhà nước đối với nông dân lớn hơn, nhằm hỗ trợ nông dân nhiều hơn, thực hiện chủ trương “ khoan sức dân

 

·         Một số vấn đề đã bộc lộ trong quá trình thực hiện chính sách thủy lợi phí mới :

 

 

Thành viên Hội dùng nước Bản Kem – Lào cai bàn bạc kế hoạch sửa chữa công trình và thu thủy lợi phí (trái).   Tổ Thủy nông giải thể vì không đủ kinh phí hoạt động  không có người tu sửa công trình, dẫn nước vào ruộng (phải)


Quan niệm “ Miễn” hay “Miễn, Giảm” thủy lợi phí :
Nội dung cũ thể của Nghị định 154 và thông tư hướng dẫn đã khẳng định nông dân vẩn phải trả phí dịch vụ thủy lợi nội đồng. Nhưng do nội dung Nghị định chưa được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng , chưa đăng tải đầy đủ trên  các báo mà nông dân thường đọc như Báo Nhân dân, Báo Nông Nghiệp Việt nam, Báo Nông thôn ngày nay., nên nông dân chưa hiểu được một cách đầy đủ và vẩn quan niệm rằng : Nhà nước đã miễn thủy lợi phí cho nông dân.., nên dẫn đến tình trạng nhiều nơi thuộc các tỉnh miền trung, miến núi..nông dân đã không trả “phí dịch vụ thủy lợi nội đồng” cho các tổ chức làm dịch vụ tưới như HTXNN làm dịch vụ tưới, tiêu..các tổ chức này gặp khó khăn, không có vốn để hoạt động , công trình xuống cấp

   

Mức thủy lợi phí được miễn đối với công trình thủy lợi ở miền núi thấp hơn so với các công trình thủy lợi ở đồng bằng :

Theo các chuyên gia tham gia soạn thảo thì các căn cứ để qui định mức thủy lợi phí của Nghị định 143/2003/ND-CP gồm :

 (1) Khả năng trả LTP( theo qui định NĐ 112 ) của nông dân ở thời điểm hiện tại, được tính đổi   

  thành tiền

 (2) Giá cả thị trường tại thời điểm năm 1999 và năm 2000

 (3) Cơ chế tài chính, tổ chức quản lý chưa được cải tiến và

 (4) Thực trạng chi phí chưa hợp lý ở cùng thời điểm đó

 (5) Mặt bằng tính toán bình quân trên toàn vùng

 (6) Chưa tính đầy đủ thực trạng về đặc điểm của công trình, hệ thống công trình, chất lượng và loại công trình đang khai thác ở từng vùng..mức độ phân cấp - IMT .

.(7) Chưa xem xét đến vai trò của người dân tham gia (PIM )

 

Từ đó và thực tế trong quá trình thực hiện đã cho thấy mức thu qui định của nghị định 143 chỉ mới đáp ứng 50-60% yêu cầu của chi phí.

( Mức chi phí đã được xác định thuộc các tỉnh duyên hải miền trung ( ở thời điểm 1999 – 2000 ) để làm căn cứ qui mức thu của Nghị định 143/2003/ND-CP :

+ Đối với vùng tưới tiêu bằng bơm điện bình quân phải chi : 3.200 – 4.357 nghìn đồng/ha/năm. Nhưng Nghị định 143 chỉ  qui định : 830 – 1.450 nghìn đồng/ha/năm

+ Đối với vùng tưới tiêu bằng trọng lực bình quân phải chi : 1.685 – 2.300 nghìn đồng/ha/năm. Nhưng Nghị định 143 chỉ qui định : 770 – 1.390 nghìn đồng/ha/năm

Tương tự mức qui định của Nghị định 143 của các tỉnh thuộc các vùng khác cũng tương tự chỉ bằng 50-60% yêu cầu chi phí )

Vì vậy mức hỗ trợ của Nghị định 115 qui định chỉ căn cứ vào mức của Nghị định 143 ( mặc dù đã có tính đến trượt giá ) để qui đinh mức hỗ trợ là chưa đảm bảo được yêu cầu chi đúng và chi đủ  cho hoạt động của các tổ chức dịch vụ tưới tiêu.

 Mặt khác, do đời sống của nông dân các tỉnh miền núi khó khăn hơn so với các tỉnh vùng đồng bằng, nên khi quyết định mức thu cũ thể của Nghị định 143 đối với  các tỉnh miền núi đã qui định thấp hơn so với các tỉnh đồng bằng.Và thực tế đã khẳng định vốn đầu tư, chi phí quản lý hàng năm đối với công trình thủy lợi có qui mô vừa và lớn ( trừ loại công trình quá nhỏ phục vụ vài héc-ta trên  phạm vi thôn, bản ) ở các tỉnh miền núi thường lớn gấp 2-3 lần so với các tỉnh đồng bằng... Vi vậy mức hỗ trợ của Nghị định 115 ( đã có tính trượt giá ) đối với các tỉnh miền núi chưa phù hợp ( chỉ bằng xấp xỉ 50% mức hỗ trợ của đồng bằng sông Hồng ).

 Nhiều địa phương đã phản ảnh thực trạng này là có căn cứ, cần được nghiên cứu  bổ sung, điều chỉnh , nhằm đảm bảo công bằng giữa các vùng trong việc hỗ trợ thủy lợi phí được miễn

  

 Xác định vị trí cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước ( HTDN ) :

  Theo ý kiến của các chuyên gia, khi xác định mức thu thủy lợi phí của Nghị định 143 đã căn cứ vào  các khoản mục chi phí qui định tại Thông tư Liên Bộ số 90/1997/TTLB/TC-NN. Nhưng khi xác định các khoản mục này đối với đối tượng sản xuất lương thực, chỉ tính đến “cống đầu kênh” do Tổ chức HTDN quản lý, tương ứng với phạm vi phục vụ 1 xã, có diện tích phục vụ tương đương  150-200 ha. Phần “sau cống đầu kênh”, nông dân thỏa thuận mức trả cho hợp tác dùng nước ( HTDN ). Một số vùng như đồng bằng sông Hồng được tính đến điều kiện hệ thống công trình được hoàn chỉnh đến cấp kênh có diện tích phụ trách từ 150 ha trở lên. Giá trị tài sản tính toán của cả nước tại thời điểm đó được ước tính khoảng 60.000 tỷ DVN, và tính cộng dồn ngân sách đầu tư hàng năm rồi trượt giá đến năm 1998.

 

  Như vậy vị trí “cống đầu kênh” đã được xác định chỉ tương ứng với một mức thu. Và khi vị trí công đầu kênh thay đổi ( khác so với vị trí đã được xác định trong Nghị định 143) thì mức thu được qui định cũng phải thay đổi theo ( lớn hơn, nhỏ hơn )

 

 Vì vậy việc xác định vị trí “cống đầu kênh” của tổ chức HTDN phải đồng thời với sự thay đổi mức miễn thủy lợi phí của nghị định 115 tương ứng. Điều này cần có hướng dẫn cũ thể, rõ ràng, có căn cứ, có sự điều chỉnh, tránh sự tùy tiện của các địa phương, nhằm đảm bảo được công bằng về lợi ích của các tổ chức làm dịch vụ, giữa các tỉnh, các vùng trong tỉnh, tránh sự trùng lặp về diện tích, làm tăng mức hỗ trợ tài chính

 

Mức thủy lợi phí  thỏa thuận :

 

Trong thông tư hướng dẫn số 36 có đề cập đến mức thủy lợi phí đối với công trình thủy lợi được đầu tư không thuộc nguồn vốn ngân sách và mức thủy lợi phí sau “cống đầu kênh” đến mặt ruộng được xác định theo” mức thỏa thuận giữa đơn vị cấp nước và người dùng nước, nhưng không được cao hơn mức trần do UBND tỉnh qui định” là chưa phù hợp, vì không tính đến với sự thỏa thuận được thiết lập giữa hai bên. Thực trạng này đang diễn ra ở đồng bằng sông Cửu long và một số tỉnh miền trung . Mặt khác, mức thỏa thuận ( kể cả mức trần do UBND tỉnh qui định ) phải có căn cứ và phải được qui định ( mức khung cũ thể ) để đảm bảo trả đủ tiền công cho người quản lý và có tính đến sự phát triển “hệ thống thủy lợi nội đồng” mà lâu nay nhiều nơi còn bỏ ngỏ, không nên qui định một cách tùy tiện sẽ hạn chế sự huy động đóng góp tự nguyện, có bàn bạc, quyết định của nông dân phục vụ cho lợi ích của chính họ

Người dân đào xẻ, đắp chẵn, dù đó là kênh bê tông, chi vì thiếu  nước, thiếu kênh nội đồng và không có tổ chức quản lý (trái). Đại diện các thôn, nông dân 4 HTX thuộc cụm I  thuộc hệ                                  thống  Nam Thạch Hãn, Quảng trị trao đổi TLP (phải)    

 

 

Vì vậy mức thỏa thuận hợp lý chỉ khi nông dân được tham gia bàn bạc và tự quyết định, thống nhất với tổ dùng nức và có sự chỉ đạo của chính quyền

Nông dân thuộc HTX Tân lệ, An thủy, Lệ thủy, Quảng bình đã tự bàn bạc, quyết định mức thỏa thuận, tự nguyện đóng góp hàng năm là 25 kg/ sào ( tương đương với mức thủy lợi phí mà họ phải trả cho doanh nghiệp nhà nước trước đây ), mức này mới có thể đảm bảo kinh phí để trả tiền công cho người quản lý, não vét các kênh tiêu,trả tiền điện, tiền dầu bơm nước, bổ sung máy bơm, sửa chữa công trình, kênh mương, máy bơm để bơm nước tười về muà khô hạn.. 

Trong khi đó nông dân tổ dùng nước ở xã Viêng lán, Thuận châu, Sơn la, chỉ được phép thu thủy lợi phí nội đồng ( gọi là thỏa thuận ) theo mức qui định là 184.000 VNĐ/ha, chưa đủ để chi trả tiền công não vét kênh, sửa chữa công trình.. nhưng lại không đươc phép thu cao hơn mức đã qui định này, nên tổ dùng nước không hoạt động được

 

  Mức hỗ trợ đối với các dịch vụ khác :

  Thu thủy lợi phí từ các đối tượng khác ( ngoài sản xuất lương thực ), như cấp nước cho phát điện, sử dụng công trình thủy lợi để kinh doanh du lịch, nuôi trồng thủy sản.. phải được ràng buộc chặt chẽ hơn, tạo được quyền cho đơn vị cấp nước nhiều hơn, nhằm tăng nguồn thu cho cho tổ chức dịch vụ cấp nước. Tuy nhiên Nghị định 115 đã qui định mức thu và xác định phạm vi cho một số đói tượng chưa hợp lý cần có sự hướng dẫn cũ thể hơn như đối tượng thủy điện, thủy sản ..    

          

 Vai trò của các hộ nông dân ( người dùng nước ) :

Nghị định 154, 115 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với nông dân sử dụng nước từ công trình thủy lợi. Trước đây các đơn vị dịch vụ ( Công ty thủy nông, HTDN ) được nông dân thanh toán đủ thủy lợi phí theo qui định ghi trong hợp đồng chỉ sau khi phục vụ tưới tiêu tốt ( theo hợp đồng ). Nhưng hiện nay phần thủy lợi phí này Nhà nước trả thay cho nông dân và nông dân cũng phải được quyền như trước đây. Nhưng trong thông tư 36 chưa thể hiện được quyền của nông dân trong việc trả thủy lợi phí và thực tế một số nơi đã xẩy ra khi nông dân trả thủy lợi phí thì ruộng có nước, nhưng khi nhà nước trả thủy lợi phí thay thì ruộng lại thiếu nước

 

 Vai trò của của các tổ chức HTDN trong các hệ thống thủy lợi do công ty thủy nông ( CTTN ) quản lý  :

Các tổ chức HTDN được phân cấp quản lý một phần công trình trong hệ thống do công ty quản lý, Công ty thực hiện ứng và thanh toán kinh phí cho tổ HTDN theo hợp đồng..”( mục 2, khoản V, thông tư 36 ) đã hạn chế quyền của tổ HTDN ( của nông dân ) và đã chuyển CTTN từ vị trí “làm dịch vụ” ( cấp nước tưới tiêu, thu TLP từ HTDN ) sang vị trí “quản lý dịch vụ”,  trả TLP cho HTDN lấy từ nguồn thủy lợi phí của nông dân được ngân sách trả thay, thực tế đã phát sinh nhiều bất hợp lý, không hiệu quả( Mô hình này đã được thực hiện ở Vĩnh phúc ).

Đặc biệt là nếu phân cấp cho tổ HTDN quản lý công trình, kênh mương thuộc hệ thống công trình do công ty quản lý có qui mô lớn hơn 1 xã ( có nơi qui mô 4 xã ) thì công ty phải thanh toán cho tổ HTDN theo qui định mức “thủy lợi phí tạo nguồn” tương đương 40-60 % của mức hỗ trợ TLP, hoặc mức TLP thu được từ nông dân trước đây ( Hiện nay Công ty KTCTTL Bắc Nghệ An, Sông Chu, Thanh hóa chỉ thanh toán cho tổ HTDNtrả 10-12 % tổng số thủy lợi phí thu được, HTDN gặp nhiều khó khăn ). Việc thanh toán cũng là điều kiện đảm bảo tự chủ tài chính cho HTDN, là yếu tố khuyến khích thực hiện chủ trương chuyển giao công trình cho nông dân quản lý thông qua tổ HTDN. Vì vậy cần tuân thủ thủ tục thanh toán tài chính ( thông qua hệ thống kho bạc và tài khoản của HTDN ), đảm bảo được quyền của tổ chức HTDN, nông dân, đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch    

 

Nguồn kinh phí cấp bù do miễn thủy lợi phí ( khoản 6, mục II ):

Trong đầu tư xây dựng công trình thủy lợi đã phân cấp đầu tư theo hai nguồn vốn: Ngân sách TW – Ngân sách địa phương. Hầu hết các trường hợp xẩy ra ( nhất là đối với các tỉnh nghèo ) thì ngân sách địa phương không thực hiện được, nên công trình được xây dựng không đảm bảo đồng bộ, khép kín, phát huy hiệu quả thấp.

Tương tự việc phân cấp ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cấp phát tiền cấp bù do miễn TLP như trong thông tư 36 hướng dẫn, các đơn vị dịch vụ thủy lợi ở địa phương nhất là các địa phương thuộc các tỉnh nghèo sẽ gặp nhiều khó khăn. Công ty sẽ không bao giờ được xét duyệt và cấp đủ, đảm bảo thực hiện được cơ chếđặt hàng, nhận đặt hàng, kể cả giao kế hoạch”như đã qui định

( Công ty TNHH tỉnh Quảng bình nằm 2008 theo KH phải có ít nhất 4 tỷ đồng để sửa chữa công trình, nhưng “chủ sở hữu” chỉ phê duyệt 1,2 tỷ đồng, nhưng thực tế đến hết năm 2008 cũng chỉ cấp được dưới 1 tỷ đông ).

 

Đặc biệt là khoảng cach điều chỉnh mức “thu điều tiếttừ các tỉnh được qui định trong thông tư 36 chưa thật hợp lý, tạo sự mất công bằng trong việc cấp bù thủy lợi phí được miễn giữa các tỉnh giàu và tỉnh nhèo .

 Ví dụ : đối với tỉnh có thu điều tiết về Ngân sách trung ương dưới 50% thì được hỗ trợ bằng 50% số thủy lợi phí được miễn, có nghĩa là đối với tỉnh nghèo có thu điều tiết về Ngân sách trung ương 1% ( tức là dưới 50% ) cũng chỉ được hỗ trợ 50% ?, tương tự các tỉnh có thu điều tiết về Ngân sách trung ương từ 50% trở lên ( 51% chẳng hạn ), ngân sách địa phương phải cấp 100% số thủy lợi phí được miễn, sẽ tạo ra sự mất công bằng so với tỉnh giàu hơn có thu điều tiết về Ngân sách trung ương từ 99% ( 50% trở lên ) ..Khoảng cách điều chỉnh quá lớn như trên sẽ tạo ra sự tùy tiện trong xét duyệt, cấp phát, nảy sinh cơ chế “xin, cho”nặng nề hơn

 

Nên thống nhất một nguồn cấp bù:

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT ( ngày 24/12/2008 ) thì “Bộ tài chính đã cấp phát cho địa phương 100% với tổng kinh phí cấp 986 tỷ đồng”. Nhưng theo điều tra nhiều  CTTN cho biết thì đến hết tháng 2/2009 các công ty này mới nhận được trên dưới 60% tổng thủy lợi phí được cấp bù do miễn thủy TLP. Các công ty hoạt động rất khó khăn, nhất là các công ty ở các tỉnh nghèo.. một phần do không đáp ứng yêu cầu về “ thủ tục “ của cơ quan thẩm quyền ở TW và Địa phương, một phần do ngân sách địa phương hạn hẹp, các thủ tục phát sinh trong quá trình cũng là trở ngại đáng kể đối với Công ty thủy nông.. Mặt khác việc phân cấp nguồn cấp bù ( TW, địa phương ) sẽ tạo ra “hai cửa” như lâu nay đã làm ( gồm Bộ ngành ở TW, cơ quan thẩm quyền ở Tỉnh ) phải thực hiện nhiều thủ tục hơn, mất nhiều thời gian hơn, phát sinh “tiêu cực” và hiệu quả sử dụng kém hơn. Thực hiện cơ chế trên, nhiều cán bộ ở địa phương đã thổ lộ :  

Trước đây công nhân thủy nông đi thu thủy lợi phí từ nông dân ( các hộ sử dụng nước ) đã vất vả, sau khi thực hiện Nghị Định 154 thì cán bộ lãnh đạo công ty phải “ đi thu thủy lợi phí “ từ các cơ quan có thẩm quyền ở TW, địa phương còn vất vả hơn. Đặc biệt thực hiện Nghị định 115 thực hiện miễn thủy lợi phí đối với nhiều đối tượng và nếu ước tính sơ bộ thì số tiền cấp bù thủy lợi phí do miễn phải lớn hơn gấp hơn 7 lần so với Nghị định 154, chắc chắn sẽ còn khó  khăn hơn nhiều . Vì vậy đề nghị nghiên cứu chỉ cấp một nguồn ( ngân sách TW ) bằng một chỉ tiêu pháp lệnh thống nhất

 

Định mức kinh tế kỹ thuật

 Lâu nay các Công ty, hợp tác dùng nước phải căn cứ khả năng “thu” từ nguồn tài chính hỗ trợ tài chính của nhà nước để “cân đối” thu – chi, “gọt chân cho vừa dày”. Trong các khoản chi chỉ ưu tiên chi đủ cho chi tiền lương, tiên công ..( nhiều công ty, khoản chi này đã chiếm  60-70% tổng số thu từ nguồn cấp phát  ) phần còn lại sẽ không đủ chi cho duy tu, bảo dưỡng công trình..dẫn đến công trình xuống cấp, đòi hỏi phải đầu tư nâng cấp công trình ngày một lớn hơn. Muốn đảm bảo công trình không xuống cấp thì phải chi đúng, đủ theo định mức kinh tế, kỹ thuật ( ĐMKTKT ). Nhưng do nguồn thu bị khống chế nên không thể  chi đúng, đủ theo ĐMKTKT. Nguồn tài chính được hỗ trợ từ ngân sách theo Nghị định 115 qui định không căn cứ vào ĐMKTKT, nên cũng không thể đáp ứng với yêu cầu chi theo  ĐMKTKT. Tình hình trên, hoạt động của các tổ chức dịch vụ tưới tiêu vẩn trong tình trạng khó khăn.

 

·         Thay lời kết

 

Nếu nhìn nhận một cách  đầy đủ và thực tế hơn, các hệ thống công trình thủy lợi đang hoạt động trong điều kiện tương tự người bị“ bệnh mãn tính “ với tình trạng “ốm yếu”, nhưng không thể “chết ngay trong ngày một, ngày hai”..”vẩn sống yên ổn”, phần nào đã gây “lạc quan”cho nhiều “ nhà quản lý, hoạch định chính sách “, nên ít tính đến hiệu quả không tương xứng với công sức, tiền của mà nhà nước và nhân dân đã bỏ ra xây dựng trong nhiêu thập kỷ qua . Nhưng để giải quyết được khó khăn trên thì biện pháp quan trọng nhất là phải tin tưởng vào người dân, cân đối khả năng nguồn tài chinh có thể huy động được, có biện pháp đúng đắn, chính sách phù hợp ..trong đó cần tập trung cải tiến hệ thống quản lý thủy lợi theo hướng xã hội hóa công trình thủy lợi, nhằm  đảm bảo “ cho cái cần câu, nhưng phải là cần câu để câu được cá”

 

Từ viết tắt :

HTDN : Tổ chức hợp tác dùng nước

CTTN :  Công ty Thủy nông, Công ty khai thác công trình thủy lợi

QLKTCTTL : Quản lý khai thác công trình thủy lợi

DMKTKT : Định mức kinh tế, kỹ thuật

TLP : Thủy lợi phí

TW : Trung ương

 

 (www.vncold.vn )

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o