Thủy điện và cơ chế phát triển sạch (CDM): vai trò của thuỷ điện trong việc đáp ứng các nghĩa vụ Kyoto
.
Hiệp ước quốc tế về Nghị định thư Kyoto có hiệu lực vào tháng 2 năm 2005, đã thiết lập thị trường về môi trường lớn nhất và thực sự lần đầu tiên có trên thế giới cho việc "mua bán tín dụng cácbon”. Và lần đầu tiên nó cũng xác lập các mục tiêu về cắt giảm phát thải mang tính ràng buộc đối với các nước phát triển. Nghị định này cũng đề ra các cơ chế cho việc mua bán cácbon dựa trên các dự án, và cho đến nay, năng lượng tái tạo - đặc biệt là thuỷ điện – là một trong những hình thức dự án thành công nhất
"Cơ chế linh hoạt" của Nghị định thư Kyoto về mua bán cácbon cho phép bán lượng cắt giảm phát thải thực hiện được ở một quốc gia cho các quốc gia khác đang cố gắng đáp ứng các mục tiêu của họ. Chi phí cho việc đáp ứng các mục tiêu này và lượng cắt giảm khí nhà kính tính chung cho toàn cầu do đó sẽ đạt được với mức chi phí thấp nhất. Cơ chế của dự án Cơ chế Phát triển Sạch (CDM) của Nghị định thư Kyoto dựa trên các dự án được xây dựng tại các nước đang phát triển. Cơ chế của dự án Kết hợp Thực hiện (JI) dành cho các dự án ở các nước đã công nghiệp hoá, chủ yếu là những nước đang chuyển đổi. CDM đã hoạt động, và cho đến nay đã có 269 dự án được cơ quan điều tiết quốc tế ghi nhận, trong số này có 40 dự án thuỷ điện, điều này cho thấy thế mạnh của lĩnh vực thủy điện. JI cũng đã hoạt động, các tổ chức cần thiết đã được thành lập và nhiều dự án đã được phê duyệt.
Các dự án thuỷ điện cho phép cắt giảm lượng phát thải bằng cách thay thế nguồn điện khác bằng nguồn năng lượng không phát thải. Vì ở hầu hết các quốc gia, điện lưới chủ yếu là từ các nhà máy nhiệt điện đốt nhiên liệu hoá thạch, nên lượng cắt giảm phát thải có thể là rất lớn. Lượng lớn CO2 cắt giảm nhờ sản xuất 1 MWh năng lượng tái tạo đối với mỗi lưới điện một khác, từ mức thấp là 0,25 tấn CO2/MWh ở Braxin (chủ yếu từ thuỷ điện) đến mức cao là 1,1 tấn CO2/MWh ở Nam Phi (chủ yếu từ than).
Các dạng dự án
Tất cả các dạng dự án thuỷ điện hiện đang được triển khai theo CDM hoặc JI, kể cả những dự án có hồ chứa tạo ra vùng ngập, chừng nào mà vùng bị ngập là nhỏ so với công suất phát điện. Các dạng dự án thuỷ điện dưới đây cho đến nay là thành công nhất trên thị trường cácbon:
- Các dự án thuỷ điện sử dụng dòng chảy cơ bản,
- Các dự án thuỷ điện sử dụng đập và hồ chứa hiện hữu,
- Các dự án quy mô lớn với vùng bị ngập tương đối nhỏ so với công suất phát điện,
- Các dự án thuỷ điện quy mô nhỏ (công suất lắp đặt dưới 15 MW).
Cho đến nay, thuỷ điện là loại nhà máy cắt giảm phát thải thành công nhất trong CDM, tính theo các dự án đã đăng ký: 40 dự án thủy điện trong số 269 dự án dạng CDM đã được đăng ký. Ta hãy xem xét hai dự án thuỷ điện đã được đăng ký của EcoSecurities, các nét đặc trưng điển hình của dự án, tín dụng cắt giảm phát thải được tạo ra và những lợi ích về phát triển bền vững đối với đất nước có công trình này.
Vì dụ về dự án thuỷ điện La Higuera
La Higuera là dự án thuỷ điện dạng CDM đầu tiên được đăng ký ở Chilê, và là dự án thuỷ điện sử dụng dòng chảy cơ bản lớn thứ hai được xây dựng ở quốc gia này. Dự án thuỷ điện sử dụng dòng chảy cơ bản công suất 155 MW nằm gần San Fernando, Chilê, do liên doanh giữa Pacific Hydro Chile S.A. và Statkraft Norfund Power Invest (SNPI) triển khai. Dự án bao gồm kênh dẫn dòng và đập nước, hầm, và các cửa lấy nước từ các sông Azufre và Tinguirica bắt nguồn từ dãy núi Andes. Với sản lượng điện hằng năm dự kiến 834,7 GWh, dự án này ước tính sẽ cắt giảm tới 470.000 t CO2 phát thải mỗi năm.
Dự án thuỷ điện Yuzaikou
Dự án thuỷ điện Yuzaikou là một dự án thuỷ điện quy mô nhỏ công suất 15 MW sử dụng dòng chảy cơ bản gần thị trấn Rucheng ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Dự án này hy vọng cung cấp 57.350 MWh/năm với lượng phát thải 40.500 t CO2e/năm. Yuzaikou đem lại nhiều lợi ích cho địa phương: giúp huyện Rucheng tự túc năng lượng, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hoá thạch để phát điện và giảm lượng phát thải khí nhà kính. Cư dân địa phương sẽ có điện để nấu nướng, điều này sẽ giúp cho việc bảo vệ rừng và đồng thời tạo ra cơ hội về việc làm và đào tạo.
Các dự án thuỷ điện quy mô nhỏ có công suất ra tối đa là 15 MW. Các dự án này thường có những lợi ích phát triển bền vững đáng kể và được một số người mua tín dụng cácbon ưa chọn. Nhằm khắc phục các rào cản đối với các dự án thuỷ điện nhỏ, năm 2001, Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Thay đổi Khí hậu (UNFCCC) đã xây dựng đường gốc chuẩn đơn giản hoá và các yêu cầu về theo dõi, bổ sung cho qui định là một vài dự án tương tự có thể được "gộp lại" để chia sẻ gánh nặng chi phí.
CDM thuỷ điện: những phát triển gần đây
Đối với các dự án thuỷ điện xây dựng mới yêu cầu phải xây dựng các hồ chứa mới thì vẫn còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Những năm gần đây, các đập lớn trở thành đề tài tranh luận của công chúng, do vậy chúng cũng được xem xét rất kỹ lưỡng theo các quy định của CDM. Gần đây, UNFCCC đã xây dựng các ngưỡng và các tiêu chuẩn chọn lựa các nhà máy thuỷ điện có hồ chứa mới thuộc phạm vi các hoạt động của dự án CDM. Các ngưỡng và các tiêu chuẩn này tính tới cả lượng phát thải mêtan từ đập và hồ chứa tại những vùng bị ngập. Nếu lượng phát thải từ hồ chứa của dự án được xác định là không đáng kể thì lượng phát thải này có thể được bỏ qua khi tính toán lượng phát thải. Do đó hiện nay, một số dự án - với các đập - có thể phù hợp với CDM hoặc JI. Các nghiên cứu khác đang được tiến hành để tìm hiểu sâu hơn về sự tuần hoàn của khí nhà kính trong phạm vi lưu vực và các hồ chứa và để nâng cao khả năng dự đoán lượng phát thải ròng sau này của các dự án thuỷ điện có hồ chứa mới).
Các quan ngại về môi trường
Các quan ngại về môi trường phải được đặt lên hàng đầu đối với việc xây dựng dự án theo CDM và JI và mỗi dự án phải đáp ứng tiêu chuẩn phát triển bền vững của chính quốc gia đó. Với các dự án có công suất lớn hơn 20 MW, Liên minh châu Âu yêu cầu theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn quốc tế do Uỷ ban Thế giới về Đập (WCD) xuất bản, cuốn Đập và phát triển. Một khuôn khổ mới cho việc đưa ra các quyết định (2001) phải được tính đến trong quá trình phát triển dự án nếu muốn các tín dụng được bán trong Kế hoạch mua bán phát thải của EU (EU ETS).
Chu kỳ của dự án CDM
Để các dự án có thể tạo ra tín dụng cácbon, cần phải tuân thủ các quy trình và thủ tục đặc biệt theo các hướng dẫn của UNFCCC. Các bược phát triển dự án theo CDM hay JI bao gồm: một bản đánh giá cácbon để xác định tính phù hợp của dự án theo tiêu chuẩn CDM hoặc JI; một Tài liệu Thiết kế Dự án (đề cương chính thức của dự án và lượng cắt giảm phát thải dự kiến); việc xác nhận tài liệu do một đơn vị độc lập thực hiện; và đăng ký chính chức dự án với UNFCCC. Ngoài ra, còn có các hợp đồng đã được ký kết, các tín dụng cácbon đã được xác nhận, phát hành và bán. Hầu hết các đơn vị triển khai dự án cácbon bán các tín dụng thông qua thỏa thuận Mua bán cắt giảm phát thải (ERPA), tức là các nghĩa vụ mua/bán các tín dụng theo hợp đồng, tương tự như Thỏa thuận mua bán điện năng (PPA).
Kinh tế dự án thuỷ điện
Đối với bất kỳ việc đầu tư nào đó vào năng lượng tái tạo ở các nước đang phát triển hoặc các nước trong giai đoạn chuyển đổi, thì có thể có hai dòng thu nhập: dòng tiền truyền thống (ví dụ bán điện) và giá trị về môi trường của việc đầu tư (ví dụ tín dụng cácbon). Với điều kiện là các dự án đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tuyển chọn như đã nêu trong các hướng hẫn về CDM hay JI, các dự án năng lượng tái tạo có thể tiếp cận các dòng thu nhập mới đáng kể. Việc bán các tín dụng cácbon có thể tăng đáng nguồn thu nhập chung từ một dự án. Do đó, một số dự án thuỷ điện có thể từ chỗ chỉ đủ khả thi hoặc kém giá trị kinh tế có thể trở nên có giá trị về kinh tế nhờ khoản thu nhập thêm từ CDM.
Thị trường cácbon và cơ chế phát triển sạch của thuỷ điện
Thị trường tín dụng cácbon đã vận hành hơn 10 năm nay, và đã tăng trưởng mạnh về số lượng và giá cả trong hai năm qua. Các đơn vị cắt giảm phát thải cácbon được mua bán với giá khác nhau tuỳ theo mặt hàng và một vài nhân tố khác ví dụ như bù rủi ro, thế hệ thiết bị, thâm niên. Châu Âu và Nhật Bản chiếm ưu thế trên thị trường người mua. Thị trường này hy vọng sẽ tăng đáng kể từ nay tới năm 2012, cuối giai đoạn đầu của Cam kết Kyoto. Cho tới cuối giai đoạn đầu của Cam kết Kyoto vào năm 2012, thị trường khí nhà kính ước tính sẽ đạt tới vài chục tỷ đô la, và là một thị trường sinh lợi và phát triển nhanh chóng. Thị trường CDM gồm nhiều dạng dự án rất khác nhau, nhưng năng lượng tái tạo là dạng dự án lớn nhất của hoạt động này. Theo ước tính có tới 44% lượng cắt giảm phát thải trên thị trường CDM hiện nay là từ ngành năng lượng, với 11% trong tổng số các dự án là từ thuỷ điện, chiếm tới 25% tổng số các dự án năng lượng tái tạo. Tình hình hiện nay của thị trường cácbon dành những cơ hội cấp vốn tuyệt vời cho các công ty thuỷ điện với các dự án thuỷ điện mới. Đối với các công ty thuỷ điện thì thị trường cácbon mới nổi lên này đem lại sự kích thích về tài chính cho việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư thương mại từ các hoạt động ở cả các quốc gia JI (Kết hợp thực hiện, ví dụ như Trung và Đông Âu) và các quốc gia CDM (châu Mỹ La Tinh, châu Á Thái Bình Dương và châu Phi). Nếu bạn đang triển khai một dự án, nên đánh giá tiềm năng cắt giảm phát thải của dự án đó và bắt đầu liên hệ với người mua và những người môi giới ngay từ giai đoạn đầu của dự án, càng sớm càng tốt.
(theo EVN)
|