» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81289329

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Thời gian thực hiện dự án đầu tư xây dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp.[23/07/12]
Tham luận tại Hội thảo’ THỜI GIAN THỰC HIỆN DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP’ do Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức

THỜI GIAN THỰC HIỆN DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

                                                                    UBND TP Hồ Chí Minh

(Tham luận tại Hội thảo’ THỜI GIAN THỰC HIỆN DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP’ do Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức )

 

Trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý đầu tư xây dựng và đang dần được hoàn thiện đảm bảo tính đồng bộ, như: Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn…, đã góp phần tạo thuận lợi cho công tác quản lý dự án đầu tư, đẩy nhanh tiến độ, rút ngắn thời gian thực hiện so với trước đây.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ, thời gian thực hiện dự án và công tác quy hoạch như chế độ, chính sách của Nhà nước thay đổi, điều chỉnh về tiền lương nhân công; công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, gặp trở ngại trong công tác di dời hạ tầng kỹ thuật công trình ngầm; giá vật tư, nhiên liệu biến động tăng cao ngoài sự kiểm soát của các chủ đầu tư và nhà thầu; kế hoạch vốn giao chậm, chưa đáp ứng kịp thời theo yêu cầu và tiến độ của dự án; nhiều chính sách của Nhà nước và các địa phương nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc ban hành chưa kịp thời…

Qua quá trình theo dõi và điều hành các dự án đầu tư xây dựng ở thành phố Hồ Chí Minh, phần lớn thời gian thực hiện dự án bị kéo dài, do tiến độ thực hiện các bước của dự án đều chậm, chưa đáp ứng yêu cầu và phải điều chỉnh thời gian thực hiện dự án, đặc biệt là do nguyên nhân chậm tiến độ giải phóng mặt bằng; cá biệt có những dự án phải kéo dài nhiều năm, phải điều chỉnh thời gian thực hiện dự án cho phù hợp với tình hình thực tế, thậm chí phải điều chỉnh tổng mức đầu tư, do biến động giá vật tư, nhiên liệu xe máy và chi phí nhân công; công tác quy hoạch mặc dù đã được Ủy ban nhân dân thành phố hết sức quan tâm chỉ đạo thực hiện nhanh và có chất lượng nhưng thực tế vẫn còn chậm, chưa đáp ứng kịp tốc độ phát triển của xã hội, nhu cầu phát triển đầu tư xây dựng của thành phố, chưa đồng bộ và thiếu sự thống nhất giữa các Bộ - ngành và địa phương.

I. Thực trạng thực hiện dự án đầu tư ở thành phố Hồ Chí Minh

1. Quá trình chuẩn bị đầu tư

Đây là giai đoạn nghiên cứu rất quan trọng; thời gian thực hiện giai đoạn này từ 02 đến 03 năm, thậm chí có dự án kéo dài lâu hơn (từ thời điểm nghiên cứu khả thi đến khi dự án được duyệt), do phải nghiên cứu đưa ra phương án kỹ thuật tối ưu, sự kết nối đồng bộ với các công trình hạ tầng kỹ thuật hiện hữu và dự kiến phát triển đô thị trong tương lai, nghiên cứu sự phù hợp với quy hoạch giao thông, tác động môi trường kinh tế, xã hội khu vực có dự án, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả kinh tế của dự án.

Thời gian thực hiện giai đoạn này thường chậm do việc chồng chéo, chưa đồng bộ về quy hoạch của các ngành; công tác phối hợp giữa các cơ quan, Sở - ngành, để thống nhất về quy mô kỹ thuật, phương án tài chính của dự án; nguồn vốn đầu tư khó khăn, ngoài ra nhiều nhà thầu tư vấn còn yếu kém về năng lực, kinh nghiệm cũng là một phần nguyên nhân.

Công tác lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bị điều chỉnh bởi quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật; quan điểm khi thẩm định quy hoạch không nhất quán và trình tự thủ tục còn nhiêu khê làm thời gian thẩm định, phê duyệt kéo dài, nhất là đối với các vị trí, khu vực đầu tư xây dựng chưa có quy hoạch chi tiết 1/2.000 (quy hoạch phân khu) được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Chủ đầu tư và đơn vị tư vấn khảo sát, lập dự án còn chủ quan, không đảm bảo nội dung hồ sơ dự án đầu tư theo quy định, làm kéo dài thời gian thẩm định, quyết định đầu tư.

2. Giai đoạn thực hiện đầu tư

Ở giai đoạn này nguyên nhân chậm tiến độ chủ yếu do thời gian thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là công trình ngầm, kéo dài chậm bàn giao mặt bằng dẫn đến phải điều chỉnh lại tiến độ thực hiện .

Ngoài ra, còn một vài nguyên nhân khác như năng lực nhà thầu hạn chế, nguồn vốn kế hoạch chưa được giao kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu tiến độ của dự án.

Cụ thể như sau:

2.1. Quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng

Mặt bằng thi công chậm được bàn giao do chính sách bồi thường (công tác thẩm định giá đất, giải quyết khiếu nại của người dân) chưa được người dân đồng thuận, việc bố trí tái định cư còn nhiều bất cập do quỹ nhà đất chưa đáp ứng kịp thời; đồng thời mất nhiều thời gian vận động thuyết phục các hộ dân, đơn vị bị ảnh hưởng chấp thuận giá bồi thường, di dời, tái định cư. Bên cạnh đó, các cấp ủy, cơ quan, tổ chức đoàn thể ở một số địa phương chưa quan tâm nhiều đến việc vận động thuyết phục người dân bị di dời giải tỏa hiểu rõ lợi ích của dự án. Các yếu tố này làm kéo dài thời gian thực hiện đầu tư.

2.2. Quá trình thi công xây lắp

Đối với các dự án phải thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng, thường  khó xác định chính xác được thời gian kết thúc công tác này, mặc dù phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Đây là nguyên nhân chính gây kéo dài thời gian thực hiện dự án. Khi thực hiện xong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, nhiều dự án phải thực hiện công tác điều chỉnh (giá, dự toán, thiết kế,…) cho phù hợp với tình hình thực tế và gián tiếp làm kéo dài dự án, chậm tiến độ.

Một số đơn vị được giao làm chủ đầu tư nhưng chưa đủ năng lực quản lý điều hành dự án (theo quy định tại Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2009 và số 83/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về Quản lý đầu tư xây dựng công trình), hoặc không thuê tư vấn quản lý dự án, hay thuê tư vấn quản lý dự án không đạt chất lượng và kinh nghiệm theo yêu cầu. Đơn vị tư vấn giám sát chưa thực hiện nghiêm công tác giám sát về tiến độ và nhà thầu thi công không đảm bảo thời gian thực hiện theo hợp đồng đã ký kết. Hơn nữa, việc phê duyệt dự án chưa ước lượng chính xác về thời gian thực hiện dự án, chủ đầu tư ký kết hợp đồng xây lắp với nhà thầu không tuân thủ thời gian được quy định theo quyết định đầu tư được duyệt.

Mặc dù thủ tục đấu thầu được quy định chặt chẽ; tuy nhiên trên thực tế, một số nhà thầu có hồ sơ dự thầu đáp ứng yêu cầu năng lực, kinh nghiệm, kỹ thuật theo nội dung hồ sơ mời thầu và giá dự thầu phù hợp (hoặc thấp nhất), nhưng sau khi trúng thầu, nhà thầu không có khả năng thực hiện dẫn đến tình trạng bán thầu hoặc sử dụng thầu phụ làm kéo dài thời gian thực hiện, không đảm bảo tiến độ.

Các thay đổi về chủ trương, chính sách liên quan đến đầu tư (trình tự thủ tục, định mức, đơn giá,…), biến động giá cũng làm kéo dài thời gian thực hiện dự án do chủ đầu tư phải điều chỉnh tổng mức đầu tư, dự toán, kế hoạch đấu thầu dự án và giá hợp đồng theo quy định và việc thực hiện điều chỉnh thường kéo dài.

Chủ đầu tư chưa quan tâm đến công tác báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư, chưa kịp thời kiến nghị những vướng mắc để cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý.

Các biện pháp chế tài, xử lý vi phạm đối với chủ đầu tư và các nhà thầu tham gia thực hiện dự án chưa đủ răn đe. Đặc biệt, đối với các vi phạm của nhà thầu tư vấn lập dự án và tư vấn quản lý điều hành dự án vẫn chưa có biện pháp, chế tài cụ thể.

3. Giai đoạn đưa vào khai thác sử dụng

Giai đoạn này cơ bản tiến độ thực hiện đạt yêu cầu, tuy nhiên có một số dự án nhà đầu tư chậm bàn giao cơ quan quản lý, sử dụng chủ yếu là do cơ chế, vướng một số thủ tục liên quan đến các Sở - ngành, quận - huyện là các đơn vị thụ hưởng; ngoài ra, do một số nhà thầu chậm thực hiện công tác lập hồ sơ hoàn công, do đó chậm nghiệm thu, bàn giao đưa vào khai thác làm ảnh hưởng đến công tác thanh quyết toán.

3.1. Quá trình thanh toán và quyết toán vốn đầu tư

Thực tế hiện nay, năng lực của các chủ đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ bản không đồng đều, dẫn đến sự chậm trễ trong công tác quản lý, giám sát và thanh quyết toán công trình. Có những dự án khi đến giai đoạn quyết toán mới phát hiện ra chủ đầu tư trong quá trình thực hiện đã vi phạm một số quy định về đầu tư xây dựng hoặc thất lạc hồ sơ pháp lý do công tác lưu trữ, bảo quản hồ sơ không cẩn thận,… do đó gây khó khăn cho công tác thẩm tra, phê duyệt quyết toán và làm tăng số lượng hồ sơ quyết toán còn tồn đọng.

Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn công tác điều chỉnh dự toán do bù giá nhân công, ca máy và vật liệu. Nhưng do cách hiểu của các chủ đầu tư không giống nhau, vì vậy việc lập dự toán điều chỉnh cũng như hồ sơ quyết toán không đồng nhất, dẫn đến cơ quan thẩm tra, phê duyệt quyết toán phải hướng dẫn đơn vị lập lại nhiều lần, gây mất thời gian cho cả chủ đầu tư và cơ quan thẩm tra, phê duyệt quyết toán.

3.2. Quá trình khai thác, đưa vào sử dụng

Do nhu cầu cấp thiết về cơ sở vật chất nên khi công trình vừa hoàn thành, chủ đầu tư đưa vào sử dụng ngay, chưa xem trọng công tác vận hành và quy trình bảo trì công trình theo đúng quy định. Một số dự án, công trình khi đưa vào vận hành, khai thác gặp phải một số khó khăn; chưa phát huy được hiệu quả đầu tư do công trình phụ trợ được đầu tư không đồng bộ; đồng thời quy trình vận hành, quy trình bảo trì, bảo dưỡng công trình không được chủ đầu tư, đơn vị tư vấn quan tâm xây dựng hợp lý và khả thi.

II. Những nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng:

Nhiều cơ quan quản lý nhà nước thụ lý hồ sơ chưa đúng thời hạn mặc dù đã có áp dụng hệ thống quản lý hồ sơ theo tiêu chuẩn ISO.

Chủ đầu tư và tư vấn lập dự án chưa chú trọng đến công tác chuẩn bị đầu tư nên thường xảy ra tình trạng chủ quan, không lường hết các hạng mục công việc cần thực hiện, dẫn đến dự án phải điều chỉnh nhiều lần.

Thời điểm phê duyệt dự án đến giai đoạn triển khai thi công kéo dài, tình hình thực tế có nhiều thay đổi nên nhiều dự án phải điều chỉnh cho phù hợp.

Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chậm, bàn giao không đồng bộ (công tác giải phóng mặt bằng khó khăn phức tạp, khối lượng lớn, hoặc đi qua nhiều địa bàn quận - huyện khác nhau). Mặt khác, đơn giá đất Nhà nước ban hành chưa theo kịp với giá nhà, đất tăng liên tục trên thị trường nên việc thuyết phục người dân đồng ý giá bồi thường để bàn giao mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Chưa tạo được quỹ đất cho việc đầu tư phát triển xây dựng quỹ nhà và quỹ đất để phục vụ công tác tái định cư. Đây là khó khăn chung cho các dự án trong thời gian vừa qua.

Công tác thi công di dời hạ tầng kỹ thuật (điện lực, viễn thông, cấp nước, thoát nước…) thường kéo dài thời gian thực hiện, bàn giao mặt bằng không đồng bộ, không đáp ứng tiến độ bàn giao mặt bằng cho công trình chính làm ảnh hưởng đến việc tổ chức, tiến độ thi công, tập kết vật tư thiết bị của nhà thầu.

III. Những giải pháp khắc phục góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư xây dựng

1. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư

1.1. Công tác thẩm định, phê duyệt quy hoạch

Công khai quy trình, nội dung và thời gian thẩm định, phê duyệt quy hoạch theo quy định; đồng thời có biện pháp kỹ luật đối với tổ chức, cá nhân làm chậm trễ làm kéo dài thời gian thẩm định, phê duyệt quy hoạch, không do lỗi từ chủ đầu tư.

1.2. Công tác tư vấn khảo sát, lập dự án đầu tư, thẩm tra thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư

Việc tham gia ý kiến về quy hoạch, vị trí, quy mô đầu tư, phương án kỹ thuật, phương án tài chính đối với dự án của các Sở - ngành và địa phương chịu ảnh hưởng bởi dự án là hết sức quan trọng. Do đó, chủ đầu tư và đơn vị tư vấn khảo sát, lập dự án phải chủ động, tích cực tổng hợp và cùng chịu trách nhiệm chung về kết quả nghiên cứu.

Cần quy định chế tài cụ thể và triệt để đối với chủ đầu tư và các đơn vị tư vấn khảo sát, lập dự án, tư vấn thẩm tra khi dự án phải điều chỉnh (địa điểm, quy mô, tổng mức đầu tư) không xuất phát từ lý do khách quan.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, rút ngắn thời gian thụ lý hồ sơ dự án. Công khai quy trình, nội dung, thời gian thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư theo quy định; quy rõ trách nhiệm cho cán bộ thụ lý hồ sơ và các bộ phận liên quan; đồng thời có biện pháp kỷ luật đối với tổ chức, cá nhân làm chậm trễ, kéo dài thời gian thẩm định, phê duyệt quy hoạch, không do lỗi từ chủ đầu tư.

2. Trong giai đoạn thực hiện đầu tư

2.1. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng

Đối với các dự án đầu tư đã xác định quy mô đầu tư cụ thể, cần tách công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư thành dự án riêng và giao địa phương làm chủ đầu tư, trong đó, cần xác định tiến độ và biện pháp thực hiện đồng bộ và khả thi.

Các cấp có thẩm quyền cần có quy trình, quy định chế tài cụ thể về thời gian giải phóng mặt bằng nhà đất, thời gian di dời công trình hạ tầng kỹ thuật và ban hành cơ chế khen thưởng và xử phạt cụ thể giúp chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.

Củng cố và hệ thống hóa lại hồ sơ, bản đồ hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật (viễn thông, điện, nước…), đặc biệt là hệ thống công trình ngầm, đã được xây dựng từ lâu nhưng thất lạc hồ sơ; xây dựng hệ thống hầm, hào kỹ thuật dùng chung, được gắn với dự án xây dựng cầu đường trong đô thị để tạo điều kiện thuận lợi cho việc di dời công trình kỹ thuật trong tương lai (nếu có).

Về cơ chế chính sách cho công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng cần phải rõ ràng, ổn định trong khoảng thời gian nhất định, tránh gây xáo trộn, và phù hợp với thực tế của từng địa phương, khu vực; cần thực hiện việc tạo quỹ đất cho việc đầu tư phát triển xây dựng nhà và quỹ đất để thực hiện bố trí tái định cư trước khi thực hiện bước thực hiện dự án.

Cần có những quy định cụ thể về điều kiện mặt bằng để các công trình được phép khởi công, ví dụ như: trong trường hợp mặt bằng của gói thầu trống được 90% và không “da beo” thì được phép khởi công; hoặc nếu trên 90% trường hợp bị ảnh hưởng đồng ý với phương án bồi thường giải phóng mặt bằng thì đối với những trường hợp còn lại được áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi đất và sẽ giải quyết khiếu kiện sau, để đẩy nhanh công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.

2.2. Công tác đấu thầu

Lựa chọn các nhà thầu tư vấn và thi công có đủ năng lực kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu tiến độ thực hiện dự án. Đối với nhà thầu nào không đạt yêu cầu hoặc cố tình vi phạm tiến độ được giao, phải có biện pháp xử lý kịp thời (phạt vi phạm hợp đồng và cấm tham dự các dự án có thời hạn) và thông tin rộng rãi nhằm mục đích răn đe.

Nhằm bảo đảm tính cạnh tranh trong đấu thầu, nội dung tiêu chuẩn đánh giá kinh nghiệm của nhà thầu, không nhất thiết yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn kinh nghiệm do một số đơn vị, tổ chức có đủ năng lực kỹ thuật, năng lực tài chính, những đơn vị mới thành lập sẽ không đáp ứng tiêu chuẩn kinh nghiệm; tiêu chuẩn này cần được đáp ứng đầy đủ, chi tiết đối với vị trí, vai trò chỉ huy trưởng (hoặc cố vấn trưởng, giám đốc dự án).

Do dự toán xây dựng công trình phải điều chỉnh cho phù hợp với chủ trương, chính sách liên quan đến đầu tư xây dựng (giá nhân công trên cơ sở quy định mức lương tối thiểu,…) dẫn đến giá gói thầu thường tăng so với gói thầu trong kế hoạch đấu thầu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; để gói thầu sớm triển khai thực hiện sau khi dự toán được điều chỉnh, đề nghị cho phép chủ đầu tư tổ chức và triển khai thực hiện sau khi được cấp thẩm quyền chấp thuận chủ trương bằng văn bản; kế hoạch đấu thầu dự án sẽ được chủ đầu tư trình cấp thẩm quyền phê duyệt điều chỉnh một lần trên cơ sở tổng dự toán điều chỉnh theo đúng quy định.

Một vấn đề cũng hết sức quan trọng để dự án được thực hiện đúng tiến độ, đó là kế hoạch vốn phải đáp ứng yêu cầu tiến độ của dự án; cần ưu tiên vốn đối với các công trình đủ mặt bằng thi công, có thể thi công dứt điểm.

Tổ chức các lớp nghiệp vụ bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý điều hành dự án cho các đơn vị được giao nhiệm vụ làm chủ đầu tư dự án đầu tư; theo dõi, giám sát và có biện pháp chế tài đối với các đơn vị không thực hiện chế độ giám sát, đánh giá đầu tư theo quy định.

2.3. Chế tài cụ thể đối với chủ đầu tư, nhà thầu thi công

Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 53/2007/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2007 về Quy định xử lý phạt hành chánh trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư và Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2009 về xử phạt hành chánh trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản;… nhưng cần có hướng dẫn cụ thể trong thực hiện.

Cần bổ sung các quy định và chế tài đủ mạnh đối với chủ đầu tư, các nhà thầu                             tư vấn và thi công, kể cả đối với các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt và quyết định đầu tư, các cơ quan có trách nhiệm phối hợp theo quy định.

2.4. Tạo nguồn vốn đầu tư

Để đảm bảo đáp ứng vốn đầu tư thực hiện đảm bảo tiến độ thực hiện quy hoạch, đồng thời nhằm giảm áp lực cho ngân sách nhà nước. Nhà nước cần quan tâm xem xét tháo gỡ những vướng mắc khó khăn về cơ chế, chính sách đảm bảo hài hòa giữa lợi ích và nghĩa vụ giữa Nhà nước và nhà đầu tư; tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn để thu hút đầu tư, nhằm đáp ứng tiến độ thực hiện quy hoạch, giảm áp lực cho nguồn vốn ngân sách nhà nước; đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện đầu tư theo hình thức BOT, BT, PPP…

3. Giai đoạn vận hành, đưa vào sử dụng

3.1. Công tác bảo hành, bảo dưỡng công trình

Tiếp tục kiện toàn, xây dựng bộ máy đủ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp để tiếp nhận và quản lý công trình từ quá trình xây dựng cũng như khai thác sử dụng; kiểm tra, rà soát việc sử dụng kinh phí ngân sách được giao theo đúng qui định, đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí.

Quy định cụ thể về việc xử lý chi phí bảo hành công trình và chế tài đối với nhà thầu thi công khi nhà thầu không thực hiện yêu cầu chủ đầu tư trong thời gian bảo hành công trình.

3.2. Trách nhiệm trong công tác thanh toán, quyết toán vốn đầu tư

Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, sau khi có chủ trương đầu tư của cấp có thẩm quyền, chủ đầu tư tiến hành lập dự án đầu tư xây dựng công trình phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước. Vì vậy, trường hợp chủ đầu tư không có đủ điều kiện năng lực về quản lý dự án thì có thể thuê tư vấn quản lý dự án và tư vấn giám sát công trình. Song thủ tục nghiệm thu khối lượng hoàn thành luôn được quy định rất chặt chẽ nên thời gian kể từ ngày khối lượng hoàn thành thực tế đến ngày chi trả tiền thường rất lâu. Do đó, để đẩy nhanh công tác thanh toán, cần phải có quy định cụ thể trong các quy định về hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của chủ đầu tư, đơn vị tư vấn quản lý dự án và đơn vị tư vấn giám sát (nếu có), nhà thầu thi công công trình.

Cơ quan chức năng cần tổ chức các lớp học bồi dưỡng nghiệp vụ để hướng dẫn các chủ đầu tư thống nhất phương pháp lập dự toán điều chỉnh và hồ sơ quyết toán công trình đối với trường hợp phải điều chỉnh dự toán do bù giá nhân công, ca máy và vật tư./.

 

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o