» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
TÍNH TOÁN CÁC ĐẶC TRƯNG THỦY VĂN THIẾT KẾ [27/01/2024]
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI - ĐẬP BÊ TÔNG VÀ BÊ TÔNG CỐT THÉP - YÊU CẦU THI CÔNG VÀ NGHIỆM THU [22/01/2024]
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI - KẾT CẤU BÊ TÔNG VÀ BÊ TÔNG CỐT THÉP THỦY CÔNG - YÊU CẦU THI CÔNG VÀ NGHIỆM THU [20/01/2024]
Như thế nào là Trạm bơm lớn, trạm bơm nhỏ? [29/01/2024]
Quyết định số 20/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Mã thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 21/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Hương thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 22/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Đồng Nai thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
 Số phiên truy cập

81575043

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Đóng góp ý kiến dự thảo Luật Xây dựng (Sửa đổi).[27/09/13]
Hiện nay vẫn tồn tại hai luồng ý kiến là để hay không để phần Quy hoạch xây dựng vào Luật Xây dựng. Để bảo vệ ý kiến (quan điểm) là phải để phần Quy hoạch xây dựng trong luật xây dựng, đề nghị Ban soạn thảo luật lý giải những vấn đề

ĐÓNG GÓP Ý KIẾN DỰ THẢO LUẬT XÂY DỰNG (SỬA ĐỔI)

 

KSCC. Hoàng Xuân Hồng

Trưởng Ban Khoa học Công nghệ

Hội Đập lớn và Phát triển Nguồn nước Việt Nam

 

I. Vấn đề quy hoạch và xây dựng

1.1. Tổng quan

Hiện nay vẫn tồn tại hai luồng ý kiến là để hay không để phần Quy hoạch xây dựng vào Luật Xây dựng. Để bảo vệ ý kiến (quan điểm) là phải để phần Quy hoạch xây dựng trong luật xây dựng, đề nghị Ban soạn thảo luật lý giải những vấn đề sau:

a. Tại sao Luật Xây dựng hiện hành được Quốc hội ban hành năm 2003 trong đó có nội dung về Quy hoạch đô thị, nhưng đến năm 2009 Quy hoạch đô thị được tách ra thành Luật Quy hoạch đô thị riêng. Như vậy phải chăng Luật Xây dựng hiện hành không thể điều chỉnh được những nội dung của Luật Quy hoạch đô thị.

b. Trong dự thảo Luật Xây dựng sửa đổi lần này xác định đối tượng của Quy hoạch xây dựng gồm: Quy hoạch vùng, Quy hoạch đô thị, Quy hoạch khu chức năng đặc thù, Quy hoạch nông thôn. Một câu hỏi đặt ra là sau khi ban hành Luật Xây dựng sửa đổi lại có những yêu cầu tách nội dung Quy hoạch nông thôn, Quy hoạch khu chức năng đặc thù, Quy hoạch vùng thành những luật riêng với những lập luận đầy thuyết phục thì liệu có phải tiến hành xây dựng các Luật Quy hoạch nông thôn, Quy hoạch khu chức năng đặc thù, Quy hoạch vùng giống như Luật Quy hoạch đô thị hiện nay không? Nếu vậy thì nội dung của “Quy hoạch xây dựng” trong Luật có còn hay không? Nêu ý kiến này chúng tôi muốn xem xét về mặt lý luận phạm vi điều chỉnh của Luật Xây dựng có nên bao gồm cả vấn đề Quy hoạch xây dựng hay không để tránh tình trạng khi người đứng đầu của cơ quan soạn thảo Luật được thay thế có thể có quyết định khác với người tiền nhiệm.

c. Theo Điều 13 của dự thảo Luật thì Quy hoạch xây dựng chỉ có 4 đối tượng đó là: Quy hoạch vùng, Quy hoạch đô thị, Quy hoạch khu chức năng, Quy hoạch nông thôn. Người đọc có thể hiểu là do Bộ Xây dựng có các viện quy hoạch đang thực hiện các nhiệm vụ quy hoạch của 4 đối tượng trên nên dự thảo chỉ nêu có 4 đối tượng đó. Thế thì còn rất nhiều các đối tượng của các bộ, ngành khác có liên quan trực tiếp đến hoạt động xây dựng vì sao không được đưa vào trong Luật, xin được liệt kê một số đối tượng đó như sau:

- Về nông nghiệp: Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước (gọi tắt là Quy hoạch thủy lợi); Quy hoạch đê sông và phòng lũ; Quy hoạch đê biển phòng chống biến đổi khí hậu và nước biển dâng; Quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản, cảng cá; Quy hoạch các vùng sản xuất muối….

- Về giao thông: Quy hoạch đường bộ; Quy hoạch đường sắt; Quy hoạch đường thủy nội địa; Quy hoạch các cảng biển; Quy hoạch cảng hàng không….

- Về công nghiệp: Các quy hoạch của phát triển các công trình năng lượng (thủy điện, nhiệt điện, điện gió, đường dây); Quy hoạch các loại công trình công nghiệp khác.

- Ngoài ra còn các lĩnh vực khác như – Quốc phòng, An ninh, Văn hóa, Du lịch,…

Như vậy, nếu theo dự thảo Luật thì tất cả các đối tượng nêu trên sẽ nằm ngoài vùng điều chỉnh của Luật Xây dựng.

1.2. Tính pháp lý của việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng

a. Điều 27 xác định cơ quan thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng.

Theo đó thì chỉ có Bộ Xây dựng và cơ quan quản lý xây dựng cấp tỉnh và cấp huyện được giao nhiệm vụ này.

Điều này chỉ có thể đúng với Điều 24 khi chỉ có 4 đối tượng đã nêu trong dự thảo nằm trong diện điều chỉnh của quy hoạch xây dựng. Còn nếu đối tượng là những quy hoạch khác đã nêu thêm ở trên thì điều này sẽ không còn đúng.

Các Điều 28,29 của dự thảo cũng bị chi phối bởi Điều 24.

b. Về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng

Trước khi có Luật Xây dựng, ở Bộ Thủy lợi cũ rất nhiều lần lãnh đạo bộ đã đưa ra thảo luận là có nên duyệt quy hoạch hay không và đều thống nhất là không duyệt mà chỉ thông qua quy hoạch vì những lý do sau:

- Các số liệu đầu vào để lập đồ án quy hoạch còn ở mức chính xác thấp dẫn đến kết quả tính toán chỉ đạt đến mức độ tin cậy vừa phải.

- Các điều kiện thiên nhiên và xã hội thay đổi rất nhiều không kịp cập nhật nên khi phê duyệt đồ án quy hoạch thì tình hình đã thay đổi khác.

- Sau khi hoàn thành đồ án quy hoạch dăm bảy năm nhưng các công trình được quy hoạch chưa có điều kiện xây dựng. Đến khi có điều kiện xây dựng thì phải điều chỉnh lại quy hoạch, nhiều lúc phải làm lại từ đầu và nếu chờ phê duyệt phải đợi để lập lại quy hoạch, phê duyệt lại kết quả thì phải kéo dài việc lập dự án thiết kế và xây dựng.

- Ở các ngành khác cũng vậy, quy hoạch thành phố Hà Nội đã được lập và phê duyệt tới 8 lần, trong lúc đó các công trình không nằm trong quy hoạch vẫn được xây dựng vì có thể do quy hoạch trước đây sai.

- Ở ngành thủy lợi hầu như sau khi phê duyệt quy hoạch (theo Luật Xây dựng), các Quy hoạch đều có nhiều nội dung không phù hợp. Khi lập dự án đều phải thay đổi mặc dù không đủ thời gian và kinh phí để điều chỉnh hoặc lập lại quy hoạch.

Những điều chúng tôi nêu trên đây phản ánh thực tế xảy ra trong mấy chục năm nay để Ban soạn thảo xem xét về tính pháp lý của việc phê duyệt quy hoạch.

- Xin bình luận thêm về việc sử dụng cụm từ “thẩm định nhiệm vụ” trong Điều 27. Nên chăng thay từ nhiệm vụ bằng từ “nội dung” bởi nhiệm vụ Quy hoạch phải được thể hiện trong đề cương lập quy hoạch, còn nội dung mới gắn liền với đồ án quy hoạch.

- Xin bình luận thêm về Hội đồng thẩm định quy hoạch. Từ trước đến nay và cả từ nay về sau nếu cách lập Hội đồng thẩm định quy hoạch như dự thảo thì chỉ mang tính hình thức và không giúp ích gì cho việc quyết định phê duyệt cả. Bởi vì muốn thẩm định một đồ án thì mỗi thành viên của hội đồng đều phải là những chuyên gia có trình độ chuyên môn sâu về từng lĩnh vực mới đưa ra các lời “phán” (ý kiến) có giá trị đích thực. Để làm được việc này thì phải có thời gian, tiền bạc để cho họ làm việc, nếu không thì hội đồng chỉ có tính chất cưỡi ngựa xem hoa và duy ý chí.

II. Dự án đầu tư xây dựng

2.1. Các bước lập báo cáo

Điều chúng tôi rất mừng là sau hàng chục năm bị loại bỏ quy định các bước lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi theo Luật Xây dựng hiện hành thì trong dự thảo Luật Xây dựng sửa đổi đã khôi phục lại. Những quy định này thực tế đã chứng minh rất đúng và hầu như các nước trên thế gới đều quy định như vậy.

2.2. Về nội dung của báo cáo nghiên cứu khả thi (tiết 3 Điều 42)

Theo dự thảo thì nội dung của báo cáo nghiên cứu khả thi gồm 2 phần.

- Thiết kế cơ sở

- Các phần khác của báo cáo NCKT gồm nhiều nội dung.

Xin có bình luận về vấn đề này như sau:

a. Nội dung báo cáo nghiên cứu khả thi

Ở đây có thể hiểu rằng nội dung của BCNCKT thì thiết kế cơ sở là số 1, sau đó mới đến các phần khác như sự cần thiết, mục tiêu, địa điểm, diện tích sử dụng đất, quy mô….

Cách đặt vấn đề như thế này có thể đúng với các dự án xây dựng dân dụng, nhưng không đúng với các dự án xây dựng khác như thủy lợi, giao thông, năng lượng….

Với việc lập các dự án thủy lợi, điều đầu tiên là phải xem xét sự cần thiết phải đầu tư, kế đến là mục tiêu của dự án, quy mô của dự án, tính khả thi của dự án và hiệu quả của dự án. Để có được những kết luận về những nội dung trên đây khi lập dự án phải tiến hành lập rất nhiều báo cáo chuyên ngành như: điều tra xã hội và kinh tế, các công việc khảo sát và nghiên cứu tính toán về khí tượng thủy văn, thủy lực, tài nguyên nước, thổ nhưỡng và tài nguyên đất, tài nguyên rừng, yêu cầu sử dụng nước, cân bằng nước, đánh giá tác động môi trường….

Sau những công việc quan trọng này mới đến vấn đề tổ chức quản lý dự án, huy động vốn và các nội dung khác.

Việc lập TKCS là để xác định được các thông số chủ yếu về kỹ thuật công trình từ đó tính được khối lượng và giá thành dự án là yếu tố quan trọng để xác định hiệu quả của dự án và xem xét tính khả thi của dự án.

b. Về vấn đề thiết kế cơ sở

Trong tờ trình Chính phủ về Luật Xây dựng sửa đổi, Bộ Xây dựng cho rằng TKCS là vấn đề cốt lõi của báo cáo NCKT (dự án đầu tư). Điều này cũng không phù hợp với các dự án thủy lợi vì những lý do đã đề cập ở trên. Chúng tôi cho rằng TKCS chỉ là một trong nhiều nội dung của báo cáo NCKT, chứ không phải nội dung số 1 như dự thảo.

Đối với các dự án thủy lợi thì việc thực hiện lập TKCS như Quy định của Luật là rất khó vì các lý do sau:

- Khối lượng công trình trong một dự án thủy lợi rất lớn (hàng trăm công trình với những dự án tưới tiêu trên 10.000 ha) mà không công trình nào giống công trình nào.

- Đầu tư về kỹ thuật và kinh phí trong giai đoạn lập BCNCKT ở nước ta là rất ít.

- Dự án thủy lợi thuộc loại công trình xây dựng dạng tuyến và diện, trải rộng trên diện tích hàng vạn ha có điều kiện tự nhiên và xã hội hết sức phức tạp.

Bởi vậy để thiết kế ở giai đoạn sau phải theo đúng TKCS là điều rất khó.

Thực tế trong nhiều năm nay phần lớn các công trình thủy lợi khi bước sang giai đoạn TKKT đều phải điều chỉnh TKCS và phải làm các thủ tục điều chỉnh TKCS.

Từ những lý do trên đây chúng tôi thấy rằng Quy định của tiết 3 Điều 42 của dự thảo Luật Xây dựng là quá đơn giản và không phù hợp với các dự án thủy lợi.

III. Vấn đề thẩm định dự án xây dựng

1. Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định dự án quan trọng quốc gia. Xin nói rõ hội đồng thẩm định này là hội đồng tư vấn hay là tổ chức có tư cách pháp lý, nếu là tư vấn thì không thể Quy định quyền thẩm định.

2. Việc tách riêng TKCS và các nội dung khác của Báo cáo NCKT cho hai cơ quan khác nhau thẩm định là không hợp lý.

3. Tại tiết 6 Điều 45 Quy định: Cơ quan thẩm định được phép thuê tư vấn làm công tác thẩm tra vậy xin đề nghị làm rõ – cơ quan chuyên môn là gì, quản lý nhà nước hay tư vấn. Tại sao không để chủ đầu tư thuê đơn vị tư vấn.

4. Điều 46 Quy định thẩm định dự án đầu tư xây dựng như dự thảo đặt ngang hàng thiết kế cơ sở với sự cần thiết phải đầu tư xây dựng, tính khả thi và tính hiệu quả của dự án là không phù hợp bởi vì 3 vấn đề sau mới quyết định nội dung của dự án.

IV. Khảo sát xây dựng và thiết kế xây dựng

1. Điều 56: Không nên để Bộ Xây dựng Quy định nội dung báo cáo khảo sát xây dựng mà giao cho các bộ chuyên ngành dưới dạng văn bản tiêu chuẩn. Ở ngành thủy lợi đã xuất bản các loại tiêu chuẩn này hơn 15 năm nay.

2. Điều 63: Cũng như Điều 45 cần làm rõ cơ quan chuyên môn về xây dựng ở đây là cơ quan nào để từ đó mới xác định thẩm quyền thẩm định.

Nên phân biệt rõ công việc thẩm tra và thẩm định. Thẩm tra là công việc của cơ quan tư vấn, thẩm định là công việc của cơ quan quản lý nhà nước hoặc của chủ đầu tư tùy theo cách phân cấp của từng bộ, ngành.

Công việc thẩm tra phải do đơn vị tư vấn thực hiện vì các đơn vị này mới có đủ chuyên gia các lĩnh vực chuyên môn (Ví dụ: đối với các công trình thủy lợi phải có đủ chuyên gia - địa hình, địa chất, thủy văn, thủy lực, môi trường, kết cấu, kiến trúc, cơ khí, điện, điều khiển, tin học, kinh tế, an toàn…) có trình độ cao và phải thực hiện công tác thẩm tra trong một thời gian đủ dài.

Công việc thẩm định cần dựa vào kết quả thẩm tra của các cơ quan tư vấn và những Quy định của luật và các văn bản dưới luật để thẩm định thiết kế công trình (dự án).

3. Điều 63: Cũng cần Quy định rõ quyền của chủ đầu tư trong việc thẩm định và phê duyệt thiết kế xây dựng.

Tiết 5 của Điều 63 viết không rõ nghĩa.

4. Cần làm rõ tại sao không để chủ đầu tư thuê các đơn vị tư vấn làm nhiệm vụ thẩm tra thiết kế mà lại để đơn vị thẩm định làm việc này. Đơn vị thẩm định là cơ quan quản lý nhà nước thì làm sao đứng ở vị trí chủ thầu, kinh phí thuê thẩm tra (có thể lớn) lấy ở đâu.

V. Một số vấn đề khác

5.1. Điều 128-tiết 2 điểm C Quy định Bộ Xây dựng ban hành Quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn xây dựng là mâu thuẫn với Luật “Tiêu chuẩn Quy chuẩn”. Bộ Xây dựng chỉ ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật cho các công trình xây dựng thuộc Bộ Xây dựng quản lý, còn các bộ chuyên môn khác ban hành các Quy chuẩn xây dựng thuộc chuyên môn bộ mình quản lý.

Tất cả các tiêu chuẩn về mọi lĩnh vực còn lại là Tiêu chuẩn Việt nam và Tiêu chuẩn cơ sở không phải do Bộ Xây dựng ban hành.

5.2. Những công việc được ghi ở các mục d, h, i, k, l, m ở tiết 2 đều giao cho các bộ quản lý xây dựng chuyên ngành mà không chỉ giao cho duy nhất Bộ Xây dựng.

Còn rất nhiều chi tiết trong dự thảo cần được xem xét, nhưng thời gian không cho phép nên chúng tôi chỉ xin tham gia vào những vấn đề lớn và quan trọng ở trên.

 

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o