ĐÓNG GÓP Ý KIẾN DỰ THẢO LUẬT XÂY
DỰNG (SỬA ĐỔI)
KSCC. Hoàng Xuân Hồng
Trưởng Ban Khoa học Công nghệ
Hội Đập lớn và Phát triển Nguồn nước Việt
Nam
I. Vấn đề quy hoạch và
xây dựng
1.1. Tổng quan
Hiện nay vẫn tồn tại hai luồng ý kiến là để hay không để phần Quy
hoạch xây dựng vào Luật Xây dựng. Để bảo vệ ý kiến (quan điểm) là phải để phần
Quy hoạch xây dựng trong luật xây dựng, đề nghị Ban soạn thảo luật lý giải
những vấn đề sau:
a. Tại sao Luật Xây dựng hiện hành được Quốc hội ban hành năm 2003
trong đó có nội dung về Quy hoạch đô thị, nhưng đến năm 2009 Quy hoạch đô
thị được tách ra thành Luật Quy hoạch đô thị riêng. Như vậy phải chăng
Luật Xây dựng hiện hành không thể điều chỉnh được những nội dung của Luật Quy
hoạch đô thị.
b. Trong dự thảo Luật Xây dựng sửa đổi lần này xác định đối tượng
của Quy hoạch xây dựng gồm: Quy hoạch vùng, Quy hoạch đô thị, Quy hoạch khu
chức năng đặc thù, Quy hoạch nông thôn. Một câu hỏi đặt ra là sau khi ban hành
Luật Xây dựng sửa đổi lại có những yêu cầu tách nội dung Quy hoạch nông
thôn, Quy hoạch khu chức năng đặc thù, Quy hoạch vùng thành những luật riêng
với những lập luận đầy thuyết phục thì liệu có phải tiến hành xây dựng các Luật
Quy hoạch nông thôn, Quy hoạch khu chức năng đặc thù, Quy hoạch vùng giống như
Luật Quy hoạch đô thị hiện nay không? Nếu vậy thì nội dung của “Quy hoạch xây
dựng” trong Luật có còn hay không? Nêu ý kiến này chúng tôi muốn xem xét về mặt
lý luận phạm vi điều chỉnh của Luật Xây dựng có nên bao gồm cả vấn đề Quy hoạch
xây dựng hay không để tránh tình trạng khi người đứng đầu của cơ quan soạn thảo
Luật được thay thế có thể có quyết định khác với người tiền nhiệm.
c. Theo Điều 13 của dự thảo Luật thì Quy hoạch xây dựng chỉ có 4
đối tượng đó là: Quy hoạch vùng, Quy hoạch đô thị, Quy hoạch khu chức năng, Quy
hoạch nông thôn. Người đọc có thể hiểu là do Bộ Xây dựng có các viện quy hoạch
đang thực hiện các nhiệm vụ quy hoạch của 4 đối tượng trên nên dự thảo chỉ nêu
có 4 đối tượng đó. Thế thì còn rất nhiều các đối tượng của các bộ, ngành khác
có liên quan trực tiếp đến hoạt động xây dựng vì sao không được đưa vào trong
Luật, xin được liệt kê một số đối tượng đó như sau:
- Về nông nghiệp: Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước
(gọi tắt là Quy hoạch thủy lợi); Quy hoạch đê sông và phòng lũ; Quy hoạch đê
biển phòng chống biến đổi khí hậu và nước biển dâng; Quy hoạch các vùng nuôi
trồng thủy sản, cảng cá; Quy hoạch các vùng sản xuất muối….
- Về giao thông: Quy hoạch đường bộ; Quy hoạch đường sắt; Quy
hoạch đường thủy nội địa; Quy hoạch các cảng biển; Quy hoạch cảng hàng không….
- Về công nghiệp: Các quy hoạch của phát triển các công trình năng
lượng (thủy điện, nhiệt điện, điện gió, đường dây); Quy hoạch các loại công
trình công nghiệp khác.
- Ngoài ra còn các lĩnh vực khác như – Quốc phòng, An ninh, Văn
hóa, Du lịch,…
Như vậy, nếu theo dự thảo Luật thì tất cả các đối tượng nêu trên
sẽ nằm ngoài vùng điều chỉnh của Luật Xây dựng.
1.2. Tính pháp lý của việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng
a. Điều 27 xác định cơ quan thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch
xây dựng.
Theo đó thì chỉ có Bộ Xây dựng và cơ quan quản lý xây dựng cấp
tỉnh và cấp huyện được giao nhiệm vụ này.
Điều này chỉ có thể đúng với Điều 24 khi chỉ có 4 đối tượng đã nêu
trong dự thảo nằm trong diện điều chỉnh của quy hoạch xây dựng. Còn nếu đối
tượng là những quy hoạch khác đã nêu thêm ở trên thì điều này sẽ không còn
đúng.
Các Điều 28,29 của dự thảo cũng bị chi phối bởi Điều 24.
b. Về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng
Trước khi có Luật Xây dựng, ở Bộ Thủy lợi cũ rất nhiều lần lãnh
đạo bộ đã đưa ra thảo luận là có nên duyệt quy hoạch hay không và đều thống
nhất là không duyệt mà chỉ thông qua quy hoạch vì những lý do sau:
- Các số liệu đầu vào để lập đồ án quy hoạch còn ở mức chính xác
thấp dẫn đến kết quả tính toán chỉ đạt đến mức độ tin cậy vừa phải.
- Các điều kiện thiên nhiên và xã hội thay đổi rất nhiều không kịp
cập nhật nên khi phê duyệt đồ án quy hoạch thì tình hình đã thay đổi khác.
- Sau khi hoàn thành đồ án quy hoạch dăm bảy năm nhưng các công
trình được quy hoạch chưa có điều kiện xây dựng. Đến khi có điều kiện xây dựng
thì phải điều chỉnh lại quy hoạch, nhiều lúc phải làm lại từ đầu và nếu chờ phê
duyệt phải đợi để lập lại quy hoạch, phê duyệt lại kết quả thì phải kéo dài
việc lập dự án thiết kế và xây dựng.
- Ở các ngành khác cũng vậy, quy hoạch thành phố Hà Nội đã được
lập và phê duyệt tới 8 lần, trong lúc đó các công trình không nằm trong quy
hoạch vẫn được xây dựng vì có thể do quy hoạch trước đây sai.
- Ở ngành thủy lợi hầu như sau khi phê duyệt quy hoạch (theo Luật
Xây dựng), các Quy hoạch đều có nhiều nội dung không phù hợp. Khi lập dự án đều
phải thay đổi mặc dù không đủ thời gian và kinh phí để điều chỉnh hoặc lập lại
quy hoạch.
Những điều chúng tôi nêu trên đây phản ánh thực tế xảy ra
trong mấy chục năm nay để Ban soạn thảo xem xét về tính pháp lý của việc phê
duyệt quy hoạch.
- Xin bình luận thêm về việc sử dụng cụm từ “thẩm định nhiệm vụ”
trong Điều 27. Nên chăng thay từ nhiệm vụ bằng từ “nội dung” bởi nhiệm vụ Quy
hoạch phải được thể hiện trong đề cương lập quy hoạch, còn nội dung mới gắn
liền với đồ án quy hoạch.
- Xin bình luận thêm về Hội đồng thẩm định quy hoạch. Từ trước đến
nay và cả từ nay về sau nếu cách lập Hội đồng thẩm định quy hoạch như dự thảo
thì chỉ mang tính hình thức và không giúp ích gì cho việc quyết định phê duyệt
cả. Bởi vì muốn thẩm định một đồ án thì mỗi thành viên của hội đồng đều phải là
những chuyên gia có trình độ chuyên môn sâu về từng lĩnh vực mới đưa ra các lời
“phán” (ý kiến) có giá trị đích thực. Để làm được việc này thì phải có thời
gian, tiền bạc để cho họ làm việc, nếu không thì hội đồng chỉ có tính chất cưỡi
ngựa xem hoa và duy ý chí.
II. Dự án đầu tư xây
dựng
2.1. Các bước lập báo cáo
Điều chúng tôi rất mừng là sau hàng chục năm bị loại bỏ quy định
các bước lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi theo
Luật Xây dựng hiện hành thì trong dự thảo Luật Xây dựng sửa đổi đã khôi phục
lại. Những quy định này thực tế đã chứng minh rất đúng và hầu như các nước trên
thế gới đều quy định như vậy.
2.2. Về nội dung của báo cáo nghiên cứu khả thi (tiết 3 Điều 42)
Theo dự thảo thì nội dung của báo cáo nghiên cứu khả thi gồm 2
phần.
- Thiết kế cơ sở
- Các phần khác của báo cáo NCKT gồm nhiều nội dung.
Xin có bình luận về vấn đề này như sau:
a. Nội dung báo cáo nghiên cứu khả thi
Ở đây có thể hiểu rằng nội dung của BCNCKT thì thiết kế cơ sở là
số 1, sau đó mới đến các phần khác như sự cần thiết, mục tiêu, địa điểm, diện
tích sử dụng đất, quy mô….
Cách đặt vấn đề như thế này có thể đúng với các dự án xây dựng dân
dụng, nhưng không đúng với các dự án xây dựng khác như thủy lợi, giao thông,
năng lượng….
Với việc lập các dự án thủy lợi, điều đầu tiên là phải xem xét sự
cần thiết phải đầu tư, kế đến là mục tiêu của dự án, quy mô của dự án, tính khả
thi của dự án và hiệu quả của dự án. Để có được những kết luận về những nội
dung trên đây khi lập dự án phải tiến hành lập rất nhiều báo cáo chuyên ngành
như: điều tra xã hội và kinh tế, các công việc khảo sát và nghiên cứu tính toán
về khí tượng thủy văn, thủy lực, tài nguyên nước, thổ nhưỡng và tài nguyên đất,
tài nguyên rừng, yêu cầu sử dụng nước, cân bằng nước, đánh giá tác động môi
trường….
Sau những công việc quan trọng này mới đến vấn đề tổ chức quản lý
dự án, huy động vốn và các nội dung khác.
Việc lập TKCS là để xác định được các thông số chủ yếu về kỹ thuật
công trình từ đó tính được khối lượng và giá thành dự án là yếu tố quan trọng
để xác định hiệu quả của dự án và xem xét tính khả thi của dự án.
b. Về vấn đề thiết kế cơ sở
Trong tờ trình Chính phủ về Luật Xây dựng sửa đổi, Bộ Xây dựng cho
rằng TKCS là vấn đề cốt lõi của báo cáo NCKT (dự án đầu tư). Điều này cũng
không phù hợp với các dự án thủy lợi vì những lý do đã đề cập ở trên. Chúng tôi
cho rằng TKCS chỉ là một trong nhiều nội dung của báo cáo NCKT, chứ không
phải nội dung số 1 như dự thảo.
Đối với các dự án thủy lợi thì việc thực hiện lập TKCS như Quy
định của Luật là rất khó vì các lý do sau:
- Khối lượng công trình trong một dự án thủy lợi rất lớn (hàng
trăm công trình với những dự án tưới tiêu trên 10.000 ha) mà không công trình
nào giống công trình nào.
- Đầu tư về kỹ thuật và kinh phí trong giai đoạn lập BCNCKT ở nước
ta là rất ít.
- Dự án thủy lợi thuộc loại công trình xây dựng dạng tuyến và
diện, trải rộng trên diện tích hàng vạn ha có điều kiện tự nhiên và xã hội hết
sức phức tạp.
Bởi vậy để thiết kế ở giai đoạn sau phải theo đúng TKCS là điều
rất khó.
Thực tế trong nhiều năm nay phần lớn các công trình thủy lợi khi
bước sang giai đoạn TKKT đều phải điều chỉnh TKCS và phải làm các thủ tục điều
chỉnh TKCS.
Từ những lý do trên đây chúng tôi thấy rằng Quy định của tiết 3
Điều 42 của dự thảo Luật Xây dựng là quá đơn giản và không phù hợp với các dự
án thủy lợi.
III. Vấn đề thẩm định dự
án xây dựng
1. Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định dự án quan trọng quốc
gia. Xin nói rõ hội đồng thẩm định này là hội đồng tư vấn hay là tổ chức có tư
cách pháp lý, nếu là tư vấn thì không thể Quy định quyền thẩm định.
2. Việc tách riêng TKCS và các nội dung khác của Báo cáo NCKT cho
hai cơ quan khác nhau thẩm định là không hợp lý.
3. Tại tiết 6 Điều 45 Quy định: Cơ quan thẩm định được phép thuê
tư vấn làm công tác thẩm tra vậy xin đề nghị làm rõ – cơ quan chuyên môn là gì,
quản lý nhà nước hay tư vấn. Tại sao không để chủ đầu tư thuê đơn vị tư vấn.
4. Điều 46 Quy định thẩm định dự án đầu tư xây dựng như dự thảo
đặt ngang hàng thiết kế cơ sở với sự cần thiết phải đầu tư xây dựng, tính khả
thi và tính hiệu quả của dự án là không phù hợp bởi vì 3 vấn đề sau mới quyết
định nội dung của dự án.
IV. Khảo sát xây dựng và
thiết kế xây dựng
1. Điều 56: Không nên để Bộ Xây dựng Quy định nội dung báo cáo
khảo sát xây dựng mà giao cho các bộ chuyên ngành dưới dạng văn bản tiêu chuẩn.
Ở ngành thủy lợi đã xuất bản các loại tiêu chuẩn này hơn 15 năm nay.
2. Điều 63: Cũng như Điều 45 cần làm rõ cơ quan chuyên môn về xây
dựng ở đây là cơ quan nào để từ đó mới xác định thẩm quyền thẩm định.
Nên phân biệt rõ công việc thẩm tra và thẩm định. Thẩm tra là công
việc của cơ quan tư vấn, thẩm định là công việc của cơ quan quản lý nhà nước
hoặc của chủ đầu tư tùy theo cách phân cấp của từng bộ, ngành.
Công việc thẩm tra phải do đơn vị tư vấn thực hiện vì các đơn vị
này mới có đủ chuyên gia các lĩnh vực chuyên môn (Ví dụ: đối với các công trình
thủy lợi phải có đủ chuyên gia - địa hình, địa chất, thủy văn, thủy lực, môi
trường, kết cấu, kiến trúc, cơ khí, điện, điều khiển, tin học, kinh tế, an
toàn…) có trình độ cao và phải thực hiện công tác thẩm tra trong một thời gian
đủ dài.
Công việc thẩm định cần dựa vào kết quả thẩm tra của các cơ quan
tư vấn và những Quy định của luật và các văn bản dưới luật để thẩm định thiết
kế công trình (dự án).
3. Điều 63: Cũng cần Quy định rõ quyền của chủ đầu tư trong việc
thẩm định và phê duyệt thiết kế xây dựng.
Tiết 5 của Điều 63 viết không rõ nghĩa.
4. Cần làm rõ tại sao không để chủ đầu tư thuê các đơn vị tư vấn
làm nhiệm vụ thẩm tra thiết kế mà lại để đơn vị thẩm định làm việc này. Đơn vị
thẩm định là cơ quan quản lý nhà nước thì làm sao đứng ở vị trí chủ thầu, kinh
phí thuê thẩm tra (có thể lớn) lấy ở đâu.
V. Một số vấn đề khác
5.1. Điều 128-tiết 2 điểm C Quy định Bộ Xây dựng ban hành Quy
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn xây dựng là mâu thuẫn với Luật “Tiêu chuẩn Quy
chuẩn”. Bộ Xây dựng chỉ ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật cho các công trình xây
dựng thuộc Bộ Xây dựng quản lý, còn các bộ chuyên môn khác ban hành các Quy
chuẩn xây dựng thuộc chuyên môn bộ mình quản lý.
Tất cả các tiêu chuẩn về mọi lĩnh vực còn lại là Tiêu chuẩn Việt
nam và Tiêu chuẩn cơ sở không phải do Bộ Xây dựng ban hành.
5.2. Những công việc được ghi ở các mục d, h, i, k, l, m ở tiết 2
đều giao cho các bộ quản lý xây dựng chuyên ngành mà không chỉ giao cho duy
nhất Bộ Xây dựng.
Còn rất nhiều chi tiết trong dự thảo cần được xem xét, nhưng thời
gian không cho phép nên chúng tôi chỉ xin tham gia vào những vấn đề lớn và quan
trọng ở trên.
|