» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81286825

 
Nước, Môi trường & Thiên tai
Gửi bài viết này cho bạn bè

Quy hoạch thủy lợi Đồng bằng Sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng(3).[15/02/12]
Trong các thập niên gần đây, ĐBSCL đã và đang gánh chịu những tác động khá mạnh mẽ do biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây nên, trong đó lũ có những biến động ngày càng lớn giữa năm lũ lớn và lũ nhỏ, bão nhiều và mạnh hơn, hạn hán nghiêm trọng hơn, cháy rừng, sạt lở bờ sông, tố lốc, triều cường... xuất hiện ngày càng nguy hiểm hơn.

QUY HOẠCH THỦY LỢI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

 TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG

(Dự thảo)

(tiếp theo)

(3)

...

 

Mực nước biển trong pha triều dâng

 

V. KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU – NƯỚC BIỂN DÂNG

1. Diễn biến khí hậu-thuỷ văn ở ĐBSCL những năm gần đây

            a. Diễn biến chung

Trong các thập niên gần đây, ĐBSCL đã và đang gánh chịu những tác động khá mạnh mẽ do biến đổi khí hậu, nước biển dâng gây nên, trong đó lũ có những biến động ngày càng lớn giữa năm lũ lớn và lũ nhỏ, bão nhiều và mạnh hơn, hạn hán nghiêm trọng hơn, cháy rừng, sạt lở bờ sông, tố lốc, triều cường... xuất hiện ngày càng nguy hiểm hơn. Chỉ tính trong 10 năm qua, ĐBSCL đã có:

- 3 năm liên tiếp từ 2000-2002 có lũ lớn, trong đó năm 2000 là lũ lớn lịch sử. Trong dãy tài liệu mực nước nhiều năm tại Tân Châu và Châu Đốc từ 1924 đến nay, 3 năm lũ lớn liên tiếp, trong đó có lũ năm 2000 là điều khá đặc biệt, do trước đó cũng có những nhóm năm lũ lớn như vậy nhưng không lớn bằng. Tại Tân Châu, đỉnh lũ năm 2000 (5,06 m) chỉ đứng thứ 2 sau lũ 1961 (5,12 m), trong khi tổng lượng đạt đến 430 tỷ m3, lớn hơn lũ 1961 chừng 15 tỷ m3.

- 7 năm liên tiếp, từ 2003 đến 2009, ĐBSCL có lũ dưới trung bình, trong đó tại Tân Châu năm 2006 có mực nước 4,00 m và năm 2008 chỉ đạt 3,65 m, thuộc năm cực nhỏ trong 70 gần đây. Lũ dòng chính nhỏ, tổng lượng nhìn chung chỉ đạt 80-90% tổng lượng trung bình, kéo theo mực nước lũ trong nội đồng cũng rất thấp, một vài năm hầu như nội đồng đói lũ (các năm 2003, 2008 và 2009, tổng lượng lũ chỉ đạt dưới 70% tổng lượng lũ trung bình). 

- 2 lần có bão lớn đổ bộ và ảnh hưởng đến ĐBSCL là bão Linda năm 1997 và bão Durian năm 2006. Theo thống kê, trong hơn 100 năm qua, ĐBSCL hứng chịu 3 trận bão đổ bộ trực tiếp, trong đó có trận bão năm 1904, cách bão Linda 93 năm, trong khi bão Durian chỉ cách bão Linda 9 năm.   

- 8 năm liền ĐBSCL gặp hạn, đặc biệt hạn kết hợp dòng chảy kiệt trên sông Mekong và xâm nhập mặn sâu vào năm 2004 và 2008. Diễn biến hạn-mặn đầu năm 2010 cũng cho thấy có xu thế gần với năm 2004.

- Tố lốc xuất hiện nhiều và gây hậu quả nghiêm trọng.

- Cháy rừng xảy ra ở nhiều nơi, đặc biệt đợt cháy rừng Vườn Quốc gia U Minh Thượng vào năm 2002 mà ảnh hưởng của nó đến nay vẫn chưa được khắc phục.

- Sạt lở bờ biển, bờ sông xảy ra với số lần, số vị trí và cường độ cao, như sạt lở ven biển Tiền Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và gần đây là biển phía Tây của tỉnh Cà Mau. Sạt lở bờ sông, kênh cũng xẩy ra với cường suất cao, ảnh hưởng nhất định đến ổn định kinh tế-xã hội của nhiều địa phương, như sạt lở bờ sông Tiền tại Tân Châu, Hồng Ngự, Sa Đéc, Vĩnh Long… sạt lở trên sông Hậu tại Châu Đốc và trên QL91 thời gian gần đây…

- Nước biển có xu thế ngày càng dâng cao, theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tại Vũng Tàu (biển Đông), mực nước biển trung bình 50 năm qua đã tăng khoảng 12 cm. Triều cường trên nền nước biển dâng ngày càng uy hiếp nghiêm trọng các vùng đất thấp, kể cả các thành phố ven biển ảnh hưởng triều như Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long…

            b. Diễn biến mực nước ven biển

Trong 25 năm (1982-2007) mực nước trung bình năm cao nhất của trạm Vũng Tàu là -18 cm năm 1996 và thấp nhất là -36 cm năm 1982 (cao độ Quốc gia). Biến trình mực nước trung bình nhiều năm ở Vũng Tàu tuy có tính chu kỳ nhưng việc xác định chính xác còn khó khăn. Biến trình mực nước bình quân 5 năm liên tục ở Vũng Tàu có chu kỳ khoảng 18-20 năm. Biến trình mực nước trung bình 18 năm tại Vũng Tàu cho thấy sự gia tăng mực nước biển. Trong vòng 25 năm (1982-2007) mực nước biển trung bình 18 năm thời kỳ 1990-2007 cao hơn mực nước biển trung bình 18 năm thời kỳ 1982-1999 là 34,4 mm, trung bình mỗi năm gia tăng 4,7 mm.

Biến trình mực nước lớn nhất trung bình nhiều năm cũng cho thấy sự gia tăng rõ rệt. Tại Vũng Tàu, mực nước lớn nhất trung bình 18 năm thời kỳ 1990-2007 cao hơn mực nước lớn nhất trung bình 18 năm thời kỳ 1982-1999 là 46,7 mm, trung bình mỗi năm gia tăng 6,2 mm.

            c. Diễn biến mực nước vùng ĐBSCL

            - Tại Tân Châu-Châu Đốc: Mực nước trạm Châu Đốc khá nhạy cảm với diễn biến mực nước thượng lưu sông Mekong. Khảo sát diễn biến mực nước tại trạm từ  1978-2008 (30 năm) cho ta thấy trên biểu đồ diễn biến mực nước cao nhất hàng năm đường xu thế biến đổi trung bình tăng 1,5 cm/năm, trên biểu đồ diễn biến mực nước chân triều thấp nhất đường xu thế biến đổi tăng 1,33 cm/năm và trên biểu đồ diễn biến mực nước trung bình năm đường xu thế biến đổi tăng 0,46 cm/năm.   

- Tại Cần Thơ: Tài liệu từ năm 1977-2008 (32 năm) cho thấy do ảnh hưởng bởi nước ngọt thượng lưu nên chân triều tại khu vực TP.Cần thơ được nâng lên cao, mùa kiệt biên độ còn từ  2,2-2,6 m (từ Thốt Nốt tới Cần Thơ), mùa lũ biên độ chỉ còn 1,1-1,8 m (từ Cần Thơ tới Thốt Nốt). Đây vẫn là điều kiện khá thuận lợi cho việc tiêu thoát nước.

2. Phát triển thượng lưu sông Mekong

Hiện nay, trên các nước thượng nguồn sông Mekong, tài nguyên nước mặt được sử dụng chủ yếu cho tưới, thuỷ điện, sinh hoạt và phát triển công nghiệp. Về mùa cạn, khi dòng chảy sông Mekong ít đi, việc sử dụng nước cho các hoạt động kinh tế-xã hội tại hạ lưu sẽ bị ảnh hưởng.

Bảng 5.1. Các công trình hồ chứa lớn trên các sông tại các quốc gia trong lưu vực  sông Mekong (tính đến năm 2009)

Quốc gia

Số hồ chứa

Dung tích hiệu dụng

(triệu m3)

Trung Quốc (22%)

3

718

Mianma (3%)

0

0

Lào (25%)

3

5.408

Thái Lan (23%)

9

5.462

Campuchia (19%)

0

0

Việt Nam (8%)

5

4.000

Tổng cộng

20

15.596

 

Dòng chính sông Mekong trên lãnh thổ Trung Quốc (sông Lancang-Lan Thương) hiện đã có 3 công trình thuỷ điện là Manwan (Mạn Loan), Dachaosan (Đại Chiếu Sõn) và Jinghong (Cảnh Hồng) với tổng dung tích hiệu dụng 718 triệu m3. Công trình thuỷ điện Xiaowan (Tiểu Loan) với công suất 4.200 MW với tổng dung tích hồ chứa là 11.500 triệu m3 (dung tích hiệu dụng 9.800 triệu m3), vận hành điều tiết mùa, cũng sắp hoàn thành.

Trên lãnh thổ Myanmar, diện tích lưu vực sông Mekong là 28.000 km2 (chiếm khoảng 3% diện tích toàn bộ lưu vực). Các hoạt động phát triển tài nguyên nước tại đây nói chung là ít. Có một số công trình thuỷ điện nhỏ đã được xây dựng dọc trên các chi lưu nhỏ của sông Mekong. Nói chung các công trình này có tác động rất nhỏ đến chế độ dòng chảy trên dòng chính sông Mê Công.

Sông Mekong trên lãnh thổ CHDCND Lào có diện tích lưu vực chiếm 25% diện tích lưu vực, có tiềm năng phát triển thuỷ điện rất lớn. Hiện nay có 5 nhà máy thuỷ điện (công suất trên 10 MW) với tổng công suất là 615 MW. Trong các nhà máy này có 3 nhà máy là dạng thuỷ điện hồ chứa, đó là các hồ thuỷ điện Nậm Ngừm và Nậm Leuk trên sông Nậm Ngừm, và hồ thủy điện Houay Ho trên sông Sê Công. Tổng dung tích hữu ích của các hồ chứa này là khoảng 5.200 triệu m3.

Ở Thái Lan, sông Mekong có diện tích lưu vực là 170.000 km2 (chiếm 22% tổng diện tích lưu vực). Hiện nay có 9 công trình hồ chứa lớn có chế độ tiều tiết mùa đang hoạt động cung cấp nước vào mùa khô. Trong số 9 công trình hồ chứa, thì 4 công trình là nhà máy thủy điện. Tổng dung tích hữu ích của các hồ chứa là 5.460 triệu m3, khả năng tưới của các công trình là 240.000 ha. Chế độ điều tiết mùa các hồ chứa này đối với tổng lượng dòng chảy trung bình tại lưu vực sông Nậm Mun và Nậm Chi ước tỉnh khoảng 6,9%.

Đối với Campuchia, các chuyên gia ước tính nhu cầu nước trong tương lai (giả thiết là cho 10 năm sau) là khoảng 1.760 triệu m3/năm (trong đó 350 triệu m3 cho dân sinh, 1.000 triệu m3 cho tưới, 150 triệu m3 cho chăn nuôi, 100 triệu m3 cho công nghiệp, 160 triệu m3 cho các mục đích khác).

Theo báo cáo của Uỷ hội sông Mekong, phát triển thuỷ điện như sau:  

- Tổng dung tích 6 hồ phía Trung Quốc đã và sẽ trữ 21 tỷ m3 (4,6%);

- Tổng 40 hồ chứa hiện có trên tất cả các dòng nhánh ở hạ lưu Mekong trữ 22 tỷ m3 (4,7%);

- Đến 2030, với việc xây dựng thêm 70 hồ chứa trên các sông nhánh ở hạ lưu Mekong, sẽ trữ thêm 20 tỷ m3 nữa (4,2%);

- Ngoài ra, tổng dung tích 11 đập trên dòng chính hạ lưu Mekong cũng sẽ trữ 2,5 tỷ m3 (0,5%);

- Tổng tỷ lệ tích của tất cả các hồ chứa thuỷ điện trong lưu vực chiếm 14,0% dòng chảy sông Mekong.

Về phát triển nông nghiệp và sử dụng nước: Trung Quốc (tỉnh Vân Nam), nhu cầu nước tưới cho nông nghiệp có thể tăng khoảng từ 1,92-2,08 tỉ m3 vào năm 2000 lên 2,25-2,44 tỉ m3 vào năm 2020. Nhu cầu nước cho công nghiệp sẽ tăng từ 518 triệu m3 vào năm 2000 lên khoảng 750 triệu m3 vào năm 2020. Myanmar mới có kế hoạch phát triển ngắn hạn 3-5 năm, lấy phát triển nông nghiệp làm cơ sở, đồng thời phát triển toàn diện các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp hiện mới có khoảng 9 triệu ha (4,5 triệu ha lúa) được khai thác trong tổng số 18 triệu ha đất có thể trồng trọt được. Lào dự kiếnổn định canh tác lúa trên diện tích khoảng 800.000 ha (Vụ Mùa 450.000 ha, vụ Đông-Xuân 370.000 ha), sản xuất 2,2triệu tấn lương thực, chú trọng thâm canh và tăng diện tích tưới, vì thế nhu cầu nước từ 3,0 tỷ m3 hiện nay chỉ tăng lên 4,5 tỷ m3 năm 2030. Thái Lan có diện tích tướitổng cộng hiện nay là 747.000 ha, trong đó 133.800 ha thuộc lưuvực sông Mun, 224.200 ha thuộc lưu vực sông Chi và 188.900 thuộc lưuvực các sông nhánh trực tiếp vào sông Mekong, các công trình vừa và nhỏ khác tưới khoảng200.000 ha. Diện tích tưới có thể tăng thêm 485.900ha trong điều kiện tất cả các công trình thuỷ lợi dự kiến được xây dựng. Tổng nhu cầu nước tăng từ 12,3 tỷ m3 hiện nay lên 23,0 tỷ m3 năm 2030. Thái Lan đã có một số đề xuất và nghiên cứu sâu 8 dự án liên quan tới vấn đề chuyển nước bên trong lưu vực. Khi các phương án này được thực hiện, diện tích tưới trong lưu vực có thể lên đến 1.223.000 ha. Nếu các phương án chuyển nước trong lưu vực sông Mekong của Thái Lan được thực hiện thì sẽ lấy đi khoảng 7-10% tổng lượng dòng chảy,tác động tới mùa kiệt và hệ sinh thái hạ lưu. Campuchia hiện có diện tích tưới mới chỉ đạt 11% và diện tích canh tác nhờ nước lũ rút là 4% trong tổng diện tích canh tác 563.000 ha thuộc hạ lưu Mekong (vụ Hè-Thu 290.000 ha, vụ Đông-Xuân 273.000 ha). Dự kiến đến 2030, trong vùng hạ lưu Mekong, Campuchia đưa diện tích Hè-Thu lên 487.400 ha và vụ Đông-Xuân lên 398.800 ha. Tổng nhu cầu nước từ 3,3 tỷ m3 năm 2007 lên 4,9 tỷ m3 năm 2030. 

Bảng 5.2.  Nhu cầu nước cho nông nghiệp hạ lưu vực Mekong

Ghi chú: Việt Nam chỉ tính phần lưu vực Se San và Srepok

 

Như vậy, tổng hợp nhu cầu nước của các nước thượng lưu, năm 2010 sẽ tăng so với 2000 là 10,9%, đến năm 2030 sẽ tăng lên 117% và 2050 tăng lên 160%.

Bảng 5.3. Nhu cầu nước cho công nghiệp và dân sinh hạ lưu vực Mekong

Ghi chú: Việt Nam chỉ tính phần lưu vực Se San và Srepok

 

3. Tình hình biến đổi khí hậu - nước biển dâng

            a. Biến đổi khí hậu thượng lưu sông Mekong

Hiện trên lưu vực Mekong có nhiều nghiên cứu và dự báo về biến đổi khí hậu. Theo IPCC (Tổ chức liên chính phủ về biến đổi khí hậu), đến 2030, trên lưu vực Mekong, nhiệt độ trung bình tăng khoảng 0,79oC, lượng mưa trung bình tăng 200 mm (15,3%), chủ yếu vào mùa mưa. Lượng mưa mùa khô tăng ở phía Bắc lưu vực và giảm ở phía Nam lưu vực (bao gồm hầu hết hạ lưu vực Mekong). Tổng lượng dòng chảy năm tăng 21%. Lũ tăng trên tất cả các vùng trong lưu vực, đặc biệt gây tác động lớn đến phía hạ lưu dòng chính Mekong. Theo một nghiên cứu của chuyên gia Úc của ADB, đến 2050, tổng lượng dòng chảy xuống Kratie tăng khoảng 10%. Một số nghiên cứu của các nước và tổ chức quốc tế khác như IWMI, Hà Lan… cho rằng đến sau năm 2070, lũ sông Mekong có thể tăng thêm 30-40% và dòng chảy kiệt giảm 20-30%. Gần đây nhất, tháng 9/2009, Ủy hội sông Mekong đánh giá, do BĐKH, đến 2050, so với giai đoạn 1985-2000, trong khi dòng chảy lũ sẽ giảm 7-8% tại Stung Treng/Kratie thì dòng chảy kiệt lại tăng xấp xỉ 20% cũng tại 2 vị trí này. Tuy nhiên, đối với Tân Châu và Châu Đốc, 2 vị trí cửa ngõ vào ĐBSCL, MRC cho thấy mùa lũ tăng 1-2% và mùa kiệt tăng khoảng 10%.      

            b. Biến đổi khí hậu ở ĐBSCL

            Theo “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng ở Việt Nam” của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tháng 6/2009, đối với vùng Nam bộ (trong đó có ĐBSCL), ứng với mức theo kịch bản phát thải trung bình, nhiệt độ đến 2020 tăng 0,4oC, 2030 tăng 0,6oC và 2050 tăng 1,0oC. Lượng mưa đến 2020 tăng 0,3%, năm 2030 tăng 0,4% và năm 2050 tăng 0,8%. Đáng lưu ý lượng mưa trong các tháng mùa khô và đầu mùa mưa (từ tháng XII năm trước đến tháng V năm sau) giảm 5,8% vào năm 2020, 8,5% vào năm 2030 và 15,6% vào năm 2050. Như vậy, tuy lượng mưa cả năm có xu thế tăng nhưng lượng mưa đầu mùa mưa giảm là nguy cơ thiếu hụt nước tưới cho sản xuất vụ Hè-Thu, khiến nhu cầu nước lấy từ sông kênh lớn hơn. 

            c. Nước biển dâng

            Trong 50 năm qua, mực nước trung bình vùng biển Đông của ĐBSCL tăng lên 12 cm. Theo “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng ở Việt Nam” của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tháng 6/2009, ứng với mức theo kịch bản phát thải trung bình, mực nước trung bình biển Đông vùng ĐBSCL tiếp tục tăng thêm 12 cm vào năm 2020, 17 cm vào năm 2030 và 30 cm vào năm 2050 (75 cm vào năm 2100). Bộ TN&MT kiến nghị các ngành và địa phương sử dụng kết quả theo kịch bản này để xây dựng chiến lược ứng phó với NBD. Trong báo cáo trên, Bộ TN&MT cũng đề xuất “Đến cuối năm 2010 sẽ hoàn thành việc cập nhật các kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam, đặc biệt là nước biển dâng, cho từng giai đoạn từ 2010 đến 2100. Các kịch bản có đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn. Đến năm 2015 tiếp tục cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam, đặc biệt là nước biển dâng”. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong kịch bản trên, còn 2 vấn đề quan trọng đối với ĐBSCL mà báo báo chưa đề cập, đó là:

- Đối với mực nước biển dâng, chỉ mới công bố mực nước dâng trung bình, trong khi đỉnh và chân thủy triều mới là vấn đề quan trọng, quyết định hình thức và quy mô công trình ứng phó. Đỉnh triều cường mới chính là nguyên nhân gây ngập lụt do triều ở ĐBSCL và TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo chưa cho thấy nếu mực nước biển trung bình tăng lên 30 cm thì đỉnh triều và chân triều có tăng lên tương ứng hay không?

- Báo cáo cũng chỉ mới dựa vào sự gia tăng mực nước tại Hòn Dấu (Hải Phòng) và Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu) ở biển Đông để xây dựng kịch bản, trong khi ĐBSCL còn ảnh hưởng của triều biển Tây. Liệu triều biển Tây có tăng như triều biển Đông?    

4. Kịch bản phát triển, biến đổi khí hậu và nước biển dâng

4.1 Kịch bản phát triển và biến đổi khí hậu ở thượng lưu

a. Dòng chảy lũ:

            Theo các đánh giá của MRC (Ủy hội sông Mekong) và các tổ chức Quốc tế khác (trong đó có phía Trung Quốc), do hệ thống hồ chứa thượng lưu cắt lũ nên dòng chảy lũ xuống hạ lưu có xu thế giảm. Tuy nhiên, xem xét trên liệt tài liệu dự báo nhiều năm từ 2010-2050 của MRC và do Viện tính toán, cho thấy:

+ Lũ đầu vụ được tích sớm, ngay từ tháng VI, tháng VII, nên lũ tháng VIII xuống ĐBSCL sẽ rất nhỏ.

+ Lũ chính vụ ở mức tần suất dưới 20% có xu thế giảm, đặc biệt lũ trung bình và dưới trung bình. Điều này khiến lũ vào ĐBSCL giảm nhỏ, bất lợi cho nhiều mặt liên quan đến lũ.

+ Lũ chính vụ ở mức tần suất trên 10% (như lũ năm 2000) hầu như không ỉam mà còn có xu thế tăng, đặc biệt tăng do BĐKH.

            Từ những phân tích trên, chọn kịch bản dòng chảy lũ thượng lưu ứng với tần suất 1% tăng tương ứng qua các năm 2020, 2030 và 2050 như Bảng 5.4.   

Bảng 5.4.  Tổng hợp biến đổi dòng chảy lũ đến Kratie theo các nguồn khác nhau (%)

 

            b. Dòng chảy kiệt:

Theo các đánh giá của MRC và các tổ chức Quốc tế khác (trong đó có Trung Quốc), do hệ thống hồ chứa thượng lưu xả phát điện vào mùa khô nên dòng chảy kiệt xuống hạ lưu có xu thế tăng. Tuy nhiên, xem xét trên liệt tài liệu dự báo nhiều năm từ 2010-2050 của MRC và do Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam tính toán, cho thấy:

+ Dòng chảy tháng I-II không được xả bằng dòng chảy tự nhiên mà có xu thế giảm nhỏ, tuy không nhiều (khoảng 30% số năm).

+ Các năm có dòng chảy kiệt từ trung bình trở lên có xu thế tăng khá rõ (khoảng 20-30%). Tuy nhiên, đây mới là dòng chảy xuống Kratie, chưa xem xét đến tác động của Biển Hồ.

+ Các năm có dòng chảy kiệt dưới trung bình, đặc biệt những năm khô hạn như 1998, 2004, 2008… (có tần suất dưới 80%), khi toàn bộ lưu vực có mưa và dòng chảy dưới trung bình, các hồ không xả hoặc xả không theo quy trình bình thường, sẽ khiến dòng chảy xuống Kratie thấp hơn tự nhiên. Đây chính là điều đặc biệt quan trọng đối với ĐBSCL trong tương lai.

            Từ những phân tích trên, chọn kịch bản dòng chảy kiệt thượng lưu ứng với tần suất 85% giảm tương ứng qua các năm 2020, 2030 và 2050 như Bảng 5.5.     

Bảng 5.5. Tổng hợp biến đổi dòng chảy kiệt đến Kratie theo các nguồn khác nhau (%)

 

c. Tổng hợp xây dựng kịch bản:

Tổng hợp các nghiên cứu, đánh giá của các tổ chức quốc tế, cân nhắc các kết quả chính thức của Ban Thư ký MRC được công bố gần đây nhất (tháng 9/2009 và tháng 4/2010), cân bằng các tác động do biến đổi khí hậu, phát triển hồ chứa và gia tăng cấp nước ở tất cả các nước thượng lưu, kịch bản chung cho dòng chảy đến Kratie/Stungtreng cho các giai đoạn như Bảng 5.6 sau đây.

Bảng 5.6. Kịch bản biến đổi dòng chảy đến Kratie (%)

Giai đoạn

2020

2030

2050

Dòng chảy mùa lũ (%)

+5

+10

+15

Dòng chảy mùa kiệt (%)

-5

-10

-15/-20

            4.2. Kịch bản nước biển dâng

            Theo báo cáo của Bộ TN&MT (6/2009), với kịch bản phát thải trung bình B2, vùng biển Đông của ĐBSCL sẽ có sự gia tăng mực nước biển trung bình như đã đề cập trên đây. Tuy nhiên, các phân tích diễn biến thuỷ triều ven biển ĐBSCL trong 50 năm qua cho thấy mực nước đỉnh triều có xu thế tăng cao hơn so với mực nước chân triều (khoảng 1,1-1,2 lần). Đối với thuỷ triều phía biển Tây ĐBSCL, xu thế có phần ngược lại, chân triều tăng nhiều hơn so với đỉnh triều. Kết quả dự báo triều các kịch bản như sau:

Bảng 4.7: Kịch bản mực nước biển dâng trung bình và mực nước đỉnh triều tương ứng

 

 

(Còn nữa)

 

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o