» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81287804

 
Nước, Môi trường & Thiên tai
Gửi bài viết này cho bạn bè

Quy hoạch thủy lợi Đồng bằng Sông Cửu long trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng (2).[09/02/12]
Toàn ĐBSCL hiện có trên 15.000 km kênh trục và kênh cấp I, gần 27.000 km kênh cấp II, khoảng 50.000 kênh cấp III và nội đồng, 80 cống rộng trên 5 m (lớn nhất là cống-đập Láng Thé 100 m và cống-đập Ba Lai 84 m), trên 800 cống rộng 2-4 m và hàng vạn cống, bộng nhỏ, trên 1.000 trạm bơm điện lớn và vừa, hàng vạn máy bơm nhỏ để chủ động tưới, tiêu.

QUY HOẠCH THỦY LỢI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

 TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG

(Dự thảo)

(tiếp theo)

(2)

...

Các đập Trà Sư – Tha La (An Giang) rất quan trọng để kiểm soát lũ tứ giác Long Xuyên

IV. HIỆN TRẠNG THỦY LỢI VÙNG ĐBSCL

            - Tưới tiêu, cấp nước:Toàn ĐBSCL hiện có trên 15.000 km kênh trục và kênh cấp I, gần 27.000 km kênh cấp II, khoảng 50.000 kênh cấp III và nội đồng, 80 cống rộng trên 5 m (lớn nhất là cống-đập Láng Thé 100 m và cống-đập Ba Lai 84 m), trên 800 cống rộng 2-4 m và hàng vạn cống, bộng nhỏ, trên 1.000 trạm bơm điện lớn và vừa, hàng vạn máy bơm nhỏ để chủ động tưới, tiêu. 

            - Kiểm soát lũ: Để kiểm soát lũ, hiện vùng ngập lũ ĐBSCL đã hình thành hệ thống đê và bờ bao với tổng chiều dài khoảng 13.000 km, trong đó có 7.000 km bờ bao chống lũ tháng 8 để bảo vệ lúa Hè-Thu. Ngoài ra còn có hơn 200 km đê bao giữ nước chống cháy cho các Vườn Quốc gia và rừng tràm sản xuất tập trung.

            - Kiểm soát mặn và triều cường:Vùng ven biển ĐBSCL đã xây dựng 450 km đê biển, 1.290 km đê sông và khoảng 7.000 km bờ bao ven các kênh rạch nội đồng để ngăn mặn, triều cường và sóng bão cho vùng ven biển.

            - Cấp nước sinh hoạt: Hầu hết dần cư ở các thị trấn, thị xã, thành phố ở ĐBSCL hiện đều được cấp nước sạch (tuy có lúc, có nơi chưa đủ về mặt số lượng). Trong khi đó, dân cư vùng nông thôn chỉ được cấp nước hợp vệ sinh với tỷ lệ khoảng 40%.

Bảng 4.1: Thống kê công trình thuỷ lợi chủ yếu ở vùng ĐBSCL

 

1. Vùng Tả sông Tiền

- Hệ thống kênh trục, cấp I: Toàn vùng Tả sông Tiền (TST) hiện có 45 kênh trục (1.068 km) và 343 kênh cấp I (3.116 km),rộng mặt từ 12-60 m và cao trình đáy từ -2,5m đến -4,0 m. So với yêu cầu, hệ thống kênh trục, cấp I vùng TST được coi là đủ. Tuy nhiên, do hầu hết chưa được nạo vét theo định kỳ nên chưa chủ động đáp ứng nhu cầu tưới, tiêu và thoát lũ.

- Hệ thống kênh cấp II: Hệ thống kênh cấp II trong vùng TST khá dày đặc, với 2.187 kênh, tổng chiều dài 6.742 km, phân bố tương đối đều, tuyvẫn một số nơi còn thiếu và lại thường bị bồi lắng nên cần tiếp tục cải tạo và phát triển thêm.

- Hệ thống cống: Nhiệm vụ chính là ngăn mặn, giữ ngọt, tưới tiêu. Toàn vùng hiện có 22 cống rộng 5-21 m, song đến nay chỉ khoảng một nửa hoạt động tốt, số còn lại cần được sửa chữa. Số lượng cống còn thiếu và chưa đồng bộ nên còn hạn chế trong chủ động tưới, tiêu và ngăn lũ. Nhiều nơi vẫn phải đắp đập thời vụ trong quá trình sản xuất.

- Trạm bơm: Trạm bơm điện quy mô lớn được xây dựng chủ yếu từ những năm 1978-1990, nhưng hoạt động kém hiệu quả. Toàn vùng hiện có khoảng 10.000 máy bơm xăng dầu các loại tưới được khoảng 70-80% diện tích canh tác. Các trạm bơm điện quy mô nhỏ tưới 100-200 ha cũng khá phát triển trong thời gian gần đây, với khoảng 20-30% diện tích. Các trạm bơm điện nhỏ và bơm xăng dầu cũng góp phần quan trọng trong tiêu mưa và tiêu lũ cuối vụ.

- Hệ thống đê, bờ bao: Hệ thống đê, bờ bao cơ bản khép kín cho toàn bộ diện tích canh tác (mật độ khoảng 29,6 m/ha), song chủ yếu có quy mô bao vùng nhỏ, đắp bằng đất tại chổ, hàng năm sau mỗi mùa lũ đều bị sạt lở, xuống cấp nên phải tu sửa thường xuyên. Hệ thống đê ngăn mặn vùng dự án Bảo Định xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Vùng dự án giữa hai sông Vàm Cỏ, dự án 79 và Bắc Đông, hệ thống bờ bao chống lũ đầu vụ còn rất yếu kém, gần như cần phải xây dựng mới.

- Hệ thống nội đồng: Do mức độ thâm canh sản xuất và sự đầu tư hệ thống thủy lợi ở các tiểu vùng có sự chênh lệch lớn nên hệ thống thuỷ nông nội đồng phát triển không đồng đều và cũng chưa có nơi nào thật sự hoàn chỉnh. Các công trình nội đồng được xây dựng chủ yếu là kênh dẫn nước và bờ bao giữ nước, đập tạm ngăn triều. Hệ thống cống bọng còn rất thiếu.

- Những hạn chế: Vùng sông Vàm Cỏ có địa thế dạng lòng máng, là vùng trũng nhất của ĐTM. Gần 64% diện tích đất đai nằm dưới cao trình 1,0 m. Trên 66% diện tích đất phèn ĐTM tập trung ở đây nhưng việc thau chua, rửa phèn chưa được chú trọng nhiều. Mùa lũ đến Vàm Cỏ Tây muộn, chua phèn từ trung tâm ĐTM chảy xuống, tiêu nước lại khó khăn do ảnh hưởng thuỷ triều. Mùa kiệt cả 2 sông đều thiếu nước (Vàm Cỏ Tây nhờ tiếp nước từ sông Tiền còn khoảng 15-25 m3/s, Vàm Cỏ Đông nhờ tiếp nước từ Dầu Tiếng có khoảng 20-25 m3/s). Do khai thác nước quá mức và dòng chảy kiệt xuống thấp trong những năm gần đây mặn xâm nhập mặn ngày càng sâu trên cả sông Tiền và sông Vàm Cỏ. Những hạn chế này khiến sản xuất nông nghiệp và cấp thoát nước vùng TST c̣n khó khăn và kém hiệu quả hơn so với những nơi khác.

2. Vùng giữa sông Tiền-sông Hậu

            Đây là vùng có điều kiện thiên nhiên khá thuận lợi, với nguồn nước dồi dào được lấy trực tiếp từ cả 2 sông Tiền và Hậu, đất đai màu mỡ. Hiện tại, vùng giữa sông Tiền-sông Hậu (GSTSH) có hệ thống thủy lợi khá hoàn chỉnh, với 32 kênh trục (chiều dài 1.039 km), 200 kênh cấp I (chiều dài 1.945 km), 1.072 kênh cấp II (chiều dài 3.363 km) và 24.773 kênh cấp III/nội đồng (chiều dài 21.853 km); 455 cống trung bình và lớn, 10.111 cống nhỏ và bọng; 494 trạm bơm điện quy mô vừa và nhỏ; 1.748 km bờ bao/đê bao kiểm soát lũ; 281 km đê sông-cửa sông và 133 km đê biển.

- Tiểu vùng Bắc Vĩnh An: Hệ thống thủy lợi cơ bản đã giải quyết được vấn đề tạo nguồn thông qua kênh trục Bảy Xã và hệ thống kênh cấp II, tưới, tiêu bằng bơm điện và bơm dầu nhỏ. Phần lớn Tiểu vùng đã được bao đê kiểm soát lũ (trong quy hoạch đây là vùng không kiểm soát lũ). Hàng năm, phần phía Tây kênh Bảy Xã (phần duy nhất còn lại của Tiểu vùng chỉ chống lũ tháng Tám) thường xuyên bị lũ tràn, gây sạt lở bờ và bồi lắng nghiêm trọng lòng sông/kênh.

- Tiểu vùng Bắc Vàm Nao: Hệ thống thủy lợi Bắc Vàm Nao được đầu tư khá đồng bộ, với hệ thống bờ bao có khả năng kiểm soát hiệu quả cả lũ tháng Tám và  lũ chính vụ. Tuy nhiên, Tiểu vùng cần lập quy trình vận hành để kiểm soát lũ, giảm chi phí tưới tiêu, đảm bảo vệ sinh nguồn nước và nguồn lợi thủy sản, phù sa… tốt hơn.

- Tiểu vùng Nam Vàm Nao (Chợ Mới): Hệ thống công trình thủy lợi khá hoàn chỉnh từ bờ bao chống lũ, một số cống cấp và tiêu thoát nước, kênh cấp 2 và nội đồng, hệ thống đê/bờ bao bảo đảm kiểm soát lũ cả năm cho trên 21.500 ha, hệ thống trạm bơm điện đủ dày (50-200 ha/trạm). Hiện Tiểu vùng đang lập Dự án đầu tư.

- Tiểu vùng Bắc Măng Thít-Nam Cái Tàu Thượng: Hiện Tiểu vùng có hệ thống bờ bao/đê kiểm soát lũ khá hoàn chỉnh, có thể kiểm soát lũ chủ động. Tưới và cấp nước nhìn chung thuận lợi và hệ thống thủy lợi cơ bản được đáp ứng. Tuy vậy, kiểm soát lũ và tiêu úng (đặc biệt là úng và phèn do trầm thủy ở vùng trung tâm) vẫn cần được quan tâm hơn ở Tiểu vùng này.

- Tiểu vùng Nam Măng Thít: Phần lớn diện tích Tiểu vùng Nam Măng Thít nằm trong phạm vi của đường ranh mặn 4g/l. Đến nay, thông qua dự án của WB, hệ thống kiểm soát mặn của Tiểu vùng đã cơ bản được khép kín nhờ hệ thống đê-cống dọc sông Cổ Chiên (cửa Cung Hầu) và sông Hậu (cửa Định An). Hệ thống đê biển đã hình thành nhưng còn thấp, yêu so với yêu cầu.

- Tiểu vùng Bến Tre: Tỉnh Bến Tre gần như hoàn toàn chịu ảnh hưởng của ranh mặn 4g/l quanh năm, tuy nhiên hệ thống kiểm soát mặn chưa hoàn toàn được khép kín nên còn nhiều vấn đề về thủy lợi cần phải giải quyết, như tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống kiểm soát mặn, tăng cường khả năng cấp ngọt, bổ sung, hoàn thiện hệ thống cấp III, nội đồng và đưa nước lên mặt ruộng. Đặc biệt, Dự án Bắc Bến Tre tuy đã được Bộ NN&PTNT phê duyệt và từng bước đầu tư (trong đó có cống Ba Lai đã hoàn thành từ năm 2004) nhưng còn một số vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn. Vùng Nam Bến Tre cũng cần được xem xét hoàn chỉnh.

- Những hạn chế: Vùng ảnh hưởng lũ tuy được đầu tư khá hoàn chỉnh nhưng chưa ổn định, quy mô các vùng bao còn biến động, hệ thống cống điều tiết chưa đủ, chưa có quy trình vận hành hợp lý. Vùng mặn tuy đã được đầu tư nhưng chưa khép kín nên nảy sinh một số vấn đề về môi trường cũng như hiệu quả công trình. Tuyến đê biển-cửa sông tuy đã hình thành nhưng còn thấp, yếu, cần tiếp tục nâng cấp, hoàn chỉnh. Vấn đề kết hợp tuyến đê biển và giao thông ven biển còn hạn chế, đặc biệt các cầu qua sông đã và đang được ngành giao thông xây dựng trong khi các cống-đập ngăn mặn vẫn còn trong giai đoạn quy hoạch. 

3. Vùng Tứ giác Long Xuyên

Với sự đầu tư mạnh mẽ trong những năm gần đây, vùng TGLX đã hình thành một hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, bao gồm hệ thống kiểm soát lũ, cống ngăn mặn, hệ thống kênh trục, cấp I, cấp II (tưới, tiêu), hệ thống đê/bờ bao, hệ thống trạm bơm hệ thống thủy lợi nội đồng. Đến nay, vùng TGLX có 64 kênh trục (1.056 km), 2.313 kênh cấp II và III (7.374 km), 38 cống trung bình và lớn, 1.915 cống nhỏ và bọng, 319 trạm bơm điện quy mô vừa, 4.485 km bờ bao/đê bao kiểm soát lũ và 63 km đê biển. Một số cụm công trình đáng chú ý là:

- Cụm công trình thoát lũ ven biển Tây: Bao gồm tuyến đê biển Rạch Giá-Ba Hòn dài 75 km, rộng mặt 3-6 m, cao trình đỉnh +2,0 m; Hệ thống gồm 23 cống ven biển Tây; Các cửa thoát lũ là các cầu trên QL80 với khoảng 35 cửa.

- Cụm công trình kiểm soát lũ dọc kênh Vĩnh Tế: Bao gồm tuyến đê ngăn lũ tràn biên giới từ Châu Đốc đến Tịnh Biên và từ Ba Chúc đến đầu kênh Hà Giang; Tuyến đê được đắp phía bờ Nam kênh Vĩnh Tế; Công trình kiểm soát lũ tràn biên giới với 2 đập cao su Trà Sư (rộng tràn 90 m, ngưỡng +1,50 m, đỉnh +3,80 m) và Tha La (rộng tràn 72m, ngưỡng +1,50 m, đỉnh +3,80 m); Nạo vét và mở rộng kênh Vĩnh Tế với chiều rộng đáy 30 m, cao trình đáy -3,0 m nhằm đảm bảo nước tưới mùa cạn với lưu lượng 37 m3/s, mở rộng bãi tràn dọc kênh Vĩnh Tế để thoát được lưu lượng lũ 1.940 m3/s; Xây dựng đường tràn kết hợp cầu cạn ở phía Bắc cầu Xuân Tô với chiều rộng 300m, cao trình đáy +1,0m để có thể thoát được lưu lượng lũ khoảng 1.220 m3/s.

- Hệ thống kênh thoát lũ và dẫn nước:Nạo vét và đào mới 23 kênh thoát lũ từ kênh Rạch Giá-Hà Tiên ra biển Tây; Hệ thống kênh trục, cấp Ibăng qua vùng TGLX với nhiệm vụ chính là thoát lũ, dẫn nước tưới, tiêu và giao thông thủy. Hầu hết các kênh trục, cấp I đều thẳng góc với thế nước sông Hậu và thủy triều biển Tây nên chế độ thủy lực các kênh tốt.

- Hiện trạng hệ thống đê bao, bờ bao: Do nằm trên băng thoát lũ nên ở vùng TGLX đã hình thành 2 loại đê bao: Đê bao kiểm soát lũ cả năm và bờ bao kiểm soát lũ  tháng Tám. Hiện An Giang có 103 ô bao kiểm soát lũ cả năm (tổng chiều dài đê bao 1.020 km), bảo vệ 40.899 ha đất 3 vụ, 396 ô bao tháng Tám (tổng chiều dài 2.365 km), bảo vệ 97.234 ha đất 2 vụ. Ở Kiên Giang đã có hệ thống bờ bao tháng Tám bảo đảm  khoảng 70.000 ha 2 vụ.

- Hệ thống kênh cấp 2:  Hệ thống kênh cấp II có mật độ trung bình trên toàn vùng 5,5 m/ha, nhưng phát triển không đều giữa các khu vực. Khu vực Đông-Nam kênh Tri Tôn kênh cấp II khá dày, khoảng cách từ 1-2 km/kênh, kích thước đáy 6-8 m, cao trình đáy -1,0 m đến -2,0 m, hàng năm bồi lắng và sạt lở mạnh. Khu vực Tây-Bắc kênh Tri Tôn (vùng TGHT), hệ thống thủy lợi cấp II mới hình thành nên đến nay mới đáp ứng khoảng 50% nhu cầu sản xuất.

- Hệ thống cống và trạm bơm tưới đầu mối: Ngoài các cống ngăn mặn ven biển thuộc 2 huyện Hòn Đất, Kiên Lương và TP.Rạch Giá (Kiên Giang), hiện nay trong vùng hầu như chưa có hệ thống cống đầu mối phục vụ tưới. Phần Kiên Giang trong vùng TGLX có 42 cống các loại với tổng độ rộng 360 m, chủ yếu là cống hở, xây kiên cố, mỗi khoang rộng 5 hay 8 m và từ 1-3 cửa. Ngược lại, phần An Giang trong vùng TGLX tuy có đến trên 1.000 cống các loại, nhưng chỉ là cống bọng nhỏ trong nội đồng, với nhiệm vụ chủ yếu tưới và giữ nước. Từ kênh trục, cấp 1,cấp 2, nước được lấy trực tiếp vào ruộng qua các cống bọng hoặc máy bơm nhỏ (dùng động cơ D12, Kohler 10 )…

- Hệ thống hồ chứa nhỏ: Hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên có diện tích đồi núi khá lớn, có tiềm năng nông nghiệp nhưng lại thiếu nguồn nước. Để phục vụ sản xuất và sinh hoạt, tại đây hiện đã xây dựng 4 hồ chứa nước nhỏ với tổng dung tích 750.000 m3, ngoài tưới còn cấp nước sinh hoạt 12.000 người.

- Hệ thống thủy lợi nội đồng: Trong vùng TGLX, hệ thống này được giới hạn sau hệ thống bờ bao các ô (đê bao kiểm soát lũ cả năm hoặc bờ bao kiểm soát lũ tháng Tám). Nước lấy từ kênh cấp II vào ruộng qua các cống bọng hoặc máy bơm nhỏ. Các thửa ruộng được giới hạn bởi bờ ruộng thấp, bên trong là rãnh dẫn nước và tiêu nước.

- Những tồn tại: Bên cạnh các ưu điểm, hệ thống thủy lợi của vùng TGLX đến nay cũng còn một số tồn tại, như làm dâng cao mực nước lũ đầu vụ và chính vụ khu vực Bắc kênh Vĩnh Tế, gia tăng xói mòn đất khu vực hạ l­ưu cầu cạn Xuân Tô, tiến độ xây dựng còn chậm, một số tuyến kênh chính chưa được nạo vét mở rộng, cụm công tŕnh KSL dọc sông Hậu chưa được thực hiện... Ngoài ra, hệ thống thủy lợi còn thiếu rất nhiều công trình vừa và nhỏ như kênh mương và cống bộng nội đồng ở vùng Bắc Tri Tôn, đặc biệt là hệ thống bờ bao ngăn mặn và bơm tiêu sau mùa lũ để đẩy nhanh vụ Đông-Xuân. Quy hoạch thuỷ lợi nội đồng TGLX còn rất manh mún, hệ thống công trình thuỷ lợi nội đồng hiện có còn rất đơn giản chủ yếu là kênh mương kết hợp tưới tiêu, chưa đáp ứng được cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng và vật nuôi.

4. Vùng Bán đảo Cà Mau

Đây là vùng có chế độ thủy văn, thổ nhưỡng phức tạp, nằm xa sông Hậu, chịu tác động của cả triều biển Đông lẫn biển Tây, đa dạng về cơ cấu và mô hình canh tác nông nghiệp và thuỷ sản, vì thế, hệ thống công trình thủy lợi trong vùng cũng phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp hơn so với các vùng khác, nhất là từ sau năm 2001-vùng ven biển có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ lúa sang nuôi trồng thủy sản trên quy mô lớn. Hiện vùng BĐCM có 36 kênh trục (633 km), 428 kênh cấp I (5.294 km), 3.297 kênh cấp II (13.689 km), 7.467 kênh cấp III và nội đồng (16.692 km), 322 cống lớn và trung bình, 244 km bờ bao kiểm soát lũ, 282 km đê biển. Các cụm công trình chủ yếu:

- Hệ thống đê biển, đê cửa sông và bờ bao: Tổng chiều dài đê biển 282 km (phía biển Tây 149 km, phía biển Đông 133 km). Cùng với các đê dọc ven biển, đê cửa sông lớn, còn có các tuyến bờ bao dọc các kênh trục, kênh cấp I (1.352 km). Tuy nhiên khả năng trữ ngọt, kết hợp giao thông nông thôn còn hạn chế. Kích thước bờ bao còn nhỏ, các tuyến chưa khép kín, cống dọc theo tuyến thiếu, vì vậy hàng năm phải chi phí đắp đập tạm, vừa rất tốn kém vừa không cho phép tiêu thoát nước nội đồng.

- Hệ thống cống: Tổng cộng đã xây dựng được 322 cống, không tính các cống bọng nhỏ hơn 3 m, với nhiệm vụ chính là ngăn mặn, tiêu thoát và điều tiết nước dưới các tuyến đê biển, đê sông, kênh trục.

- Hệ thống kênh trục, kênh cấp I: Trục dẫn, trữ nước ngọt, tiêu thoát nước dư thừa, nước phèn phục vụ vùng sản xuất nông nghiệp có tổng chiều dài khoảng 641 km. Trục dẫn nước mặn, tiêu thoát nước dư thừa, nước phèn phục vụ cho việc  nuôi trồng thủy hải sản có tổng chiều dài khoảng 946 km. Chiều rộng mặt bình quân kênh trục chính 20-45 m (một số kênh rộng 70-80 m, thậm chí vài trăm mét. Cao trình đáy kênh biến đổi trong khoảng từ -2,5 đến -5,5 m.

- Hệ thống kênh cấp II: Kênh cấp II đa số có chiều rộng mặt từ 8-10 m, cao trình đáy -0,5 đến -2,0 m, trung bình các kênh cách nhau 1,5 km (ở những nơi có hệ thống thủy lợi phát triển chỉ cách nhau khoảng 1,0 km). Tổng chiều dài kênh cấp II là 13.496 km, với mật độ trung bình 8,0 m/ha đất nông nghiệp.

- Hệ thống kênh mương nội đồng: Kênh cấp III có chiều rộng mặt 2-5 m, cao trình đáy 0,0 đến -1,0 m, tổng chiều dài 25.580 km, mật độ trung bình 6 m/ha đất nông nghiệp nhưng phân bố không đều.

- Hệ thống bơm nước: Toàn vùng hiện còn 3 trạm bơm điện cố định là Thạnh An 2, Tân Hiệp và Đông Lộc (TB. Thạnh An thiết kế tưới 1.775 ha, tiêu 600 ha, 7 máy 1.000 m3/giờ, hiện tưới 750 ha; TB. Tân Hiệp 8 máy 4.000 m3/giờ, tưới tiêu 5.100 ha, hiện tưới 500-700 ha). Huyện Vị Thanh và Long Mỹ mới xây dựng 6 TB điện nhỏ dọc tuyến truyền tải điện, quy mô mỗi trạm 2 máy 450 m3/giờ, tưới 65 ha. Phần lớn diện tích trong vùng BĐCM được tưới tiêu hoặc cấp nước mặn bằng máy bơm nhỏ, năng lực cấp thoát nước 2-5 ha. Một số trạm bơm lớn hơn có năng lực thiết kế từ 20-25 ha, phục vụ cấp nước cho hộ hoặc liên hộ. Toàn vùng hiện có khoảng 15.000-16.000 máy bơm nhỏ các loại.

5. Thành tựu và tồn tại của phát triển thuỷ lợi ĐBSCL

a.     Những thành tựu đạt được:

            Cùng với các công trình thuỷ lợi được hình thành qua hàng trăm năm, trong hơn 30 năm đầu tư, xây dựng gần đây, với số vốn đầu tư lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, huy động cả từ Trung ương, địa phương và người dân, ĐBSCL đã hình thành một hệ thống công trình thủy lợi khá hoàn chỉnh, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của toàn đồng bằng.

- Về tưới, khoảng trên 1,4 triệu ha (trên 90% diện tích vụ Đông-Xuân và Hè-Thu) đã được chủ động tưới bằng hệ thống kênh, cống các cấp, kể cả những vùng có khó khăn về nguồn nước như Tứ giác Hà Tiên, Nam Măng Thít, Quản Lộ-Phụng Hiệp, ven biển Đông, biển Tây, vùng phèn nặng ở trung tâm ĐTM, TGLX… Một số nơi do chưa chủ động được nguồn cấp ngọt từ sông chính nhưng cũng đã hình thành hệ thống bờ bao, cống bọng, thậm chí cống có quy mô khá lớn để trữ, giữ nước mưa, tạo điều kiện kéo dài thời gian có ngọt từ 6-7 tháng trước đây lên 9-10 tháng, thậm chí hơn 11 tháng trong năm.

- Về kiểm soát lũ, ngay từ những năm đầu Thập niên 90 của Thế kỷ 20, đứng trước yêu cầu tăng vụ, đảm bảo sản xuất vụ Hè-Thu, người dân vùng ngập lụt ĐBSCL đã triển khai dạng bờ bao kiểm soát lũ đầu vụ (tháng Tám), mang lại hiệu quả thiết thực cho vùng ngập lũ. Đến nay, tuy việc phát triển hệ thống bờ bao kiểm soát lũ đầu vụ, kể cả nhiều nơi chuyển sang hình thức kiểm soát lũ cả năm ngay trong vùng ngập trung bình (từ 1,5-2,5 m) là tự phát, không theo quy hoạch, song, cùng với hệ thống kiểm soát lũ do Nhà nước đầu tư, trong đó có đê bảo vệ các khu dân cư tập trung, thì phải thấy rằng, kiểm soát lũ ĐBSCL là hướng đi đúng đắn, đã đạt những thành quả đáng kể, giúp ổn định và phát triển kinh tế-xã hội nói chung và sản suất nông nghiệp nói riêng trong vùng ngập lụt. Cùng với hệ thống các cụm dân cư được xây dựng theo chương trình dân cư vùng ngập lũ, hệ thống giao thông kết hợp thủy lợi đã kết nối các khu dân cư với hệ thống giao thông liên huyện, liên tỉnh và quốc gia, tạo thành địa bàn sinh sống vững chắc, an toàn và chủ động trong vùng ngập lũ.     

- Về tiêu nước, do còn nhiều vùng trũng thấp, vùng ảnh hưởng lũ lớn, nên hiện hệ thống tiêu thoát nước chỉ có thể phục vụ tốt cho khoảng 80% diện tích sản xuất nông nghiệp với mục tiêu sản xuất ổn định 2 vụ lúa Đông-Xuân và Hè-Thu. Những năm mưa lớn, lũ rút muộn thường gây khó khăn cho sản xuất ở ĐBSCL về thời vụ do chưa đáp ứng tốt khả năng tiêu thoát nước mưa, nước lũ. 

- Về hệ thống đê biển, đê cửa sông, vùng ven biển và cửa sông ĐBSCL đã từng bước hình thành hệ thống đê ngăn mặn, kiểm soát triều cường, sóng cao và đang nâng dần lên khả năng chống chọi với nước dâng do bão. Nhiều tuyến đê đã phát huy tốt hiệu quả trong kiểm soát mặn và phòng tránh thiên tai, như các tuyến đê biển Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang… Các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, tuy hệ thống đê biển chưa khép kín nhưng từng đoạn tuyến cũng đã phát huy tác dụng tích cực trong bảo vệ sản xuất nông nghiệp.

- Về cải tạo và phát triển vùng đất phèn, nhờ hệ thống thủy lợi, mặc dù có lúc, có nơi, do phát triển kênh và cống vùng phèn gây nên những tác động tiêu cực lên chất lượng nước trong vùng và lân cận, song, sau nhiều năm phát triển, đến nay, cơ bản chung ta đã hiểu và làm chủ được vùng đất phèn, biến những vùng đất phèn rộng lớn ở ĐTM, TGLX và BĐCM thành những vùng sản xuất lúa ổn định 2-3 vụ. Hiện chỉ còn một ít đất phèn nặng ở vùng rốn phèn ĐTM (Bắc Đông-Bo Bo), BĐCM (Hồng Dân, Phước Long)… nhưng cũng được sử dụng trồng tràm và cây công nghiệp.     

- Về kết hợp giao thông-thủy lợi-dân cư, nhờ thực hiện Quyết định 99/QĐ-TTg, hầu hết công trình thủy lợi xây dựng trong thời gian sau này ở tất cả các vùng đều có sự kết hợp khá tốt giữa nạo vét, nâng cấp kênh, xây dựng bờ bao với giao thông nông thôn, giao thông liên huyện, bố trí địa bàn dân cư…, đặc biệt ở vùng ngập lụt.

- Về chống xói lở bờ biển, xói lở, bồi lắng sông, kênh, trong những năm qua đã có nhiều công trình kè được xây dựng, việc nạo vét cửa sông, dọc kênh cũng được thực hiện, mang lại hiệu quả nhất định trong bảo vệ các khu dân cư, các công trình ven biển, ven sông, đảm bảo khả năng cấp nước, thoát lũ của toàn hệ thống…   

- Về phòng chống cháy rừng, nhờ hệ thống đê bao, cống điều tiết nước và hệ thống trạm bơm, các Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Tràm Chim, U Minh Hạ, các khu Bảo tồn thiên nhiên Xẻo Quýt, Lung Ngọc Hoàng, Trà Sư… đã được bảo vệ khá tốt qua những năm gần đây.     

b.     Những tồn tại chính:

            Vùng Đồng bằng sông Cửu Long được đầu tư xây dựng các quy hoạch theo lưu vực sông, theo hệ thống thủy lợi và chỉ tập trung giải quyết vào từng vùng, khu vực cụ thể. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua vấn đề ngập lũ, ngập triều ở các thành phố lớn (Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, Mỹ Tho, Long Xuyên…); ngập lũ ở Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, ngập triều ở Cà Mau; xâm nhập mặn ở các tỉnh ven biển ngày càng trở nên trầm trọng và Quy hoạch lại tập trung giải quyết trên cơ sở đối phó, cụ thể theo chủ đề, chưa có cái nhìn tổng thể cho cả vùng (vì ĐBSCL là khu vực có tính liên thông rất lớn), nhất là trong điều kiện BĐKH-NBD nên tất yếu dẫn đến lãng phí nguồn lực và thường phải rà soát, bổ sung quy hoạch nhiều lần.

            Chưa có sự kết hợp giữa lĩnh vực thủy lợi và các lĩnh vực khác (nhất là giao thông) trong các quy hoạch thủy lợi vùng ĐBSCL, đây là hạn chế nhằm làm tăng kinh phí đầu tư, gây lãng phí nguồn lực xã hội.

Quy hoạch thuỷ lợi là cơ sở cho đầu tư và xây dựng công trình. Quản lý tốt quy hoạch là đảm bảo cho quy hoạch được thực hiện theo đúng định hướng, đúng lộ trình và không gây mâu thuẫn với lâu dài, với các ngành. Đối với quy hoạch lũ và quy hoạch tổng thể thuỷ lợi ĐBSCL theo Quyết định 84/TTg, những tồn tại trong quản lý quy hoạch được nhận thấy là:  

- Trong vùng ngập lũ trung bình, theo quy hoạch lũ chỉ sản xuất 2 vụ lúa (Đông-Xuân, Hè-Thu), lên bờ bao bảo vệ vụ Hè-Thu khi gặp lũ sớm (lũ tháng 8). Song trong những năm qua, diện tích bao đê kiểm soát lũ cả năm để sản xuất 3 vụ phát triển nhanh (thêm vụ Thu-Đông), đặc biệt ở 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp, tác động đến nhiều mặt về dòng chảy lũ, nước ngầm và môi trường.

- Vùng ven biển, ở những nơi trước đây chỉ làm một vụ Mùa, nay nhờ có nước ngọt (trữ trong đồng hay chuyển từ sông vào) đã tăng lên 2 vụ khá ổn định (Đông-Xuân và Hè-Thu) trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, nhiều chân ruộng được người dân sản xuất 3 vụ (thêm vụ Thu – Đông), khiến việc cấp nước cho vùng ven biển gặp rất nhiều khó khăn, kém ổn định.   

- Nhiều hạng mục công trình được thay đổi quy mô, chức năng và nhiệm vụ trong quá trình chuẩn bị đầu tư.

- Các hệ thống công trình và nhiều công trình chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ.

- Một số hệ thống công trình được xây dựng khá hoàn chỉnh nhưng việc quản lý vận hành hệ thống chưa được chú trọng.

- Hầu hết các công trình, hệ thống công trình chưa đủ năng lực để ứng phó với BĐKH-NBD và không có công trình, hệ thống công trình để chủ động ứng phó.

 

 

(Còn nữa)

 

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o