» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81297776

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Vấn đề Thuỷ lợi phí:Quá trình thực hiên ở nước ta, kinh nghiệm một số nước khác và kiến nghị giải pháp.(28/3/07)
-

Vấn đề Thuỷ lợi phí :

Quá trình thực hiên ở nước ta, kinh nghiệm một số nước khác và kiến nghị giải pháp

Cục Thuỷ lợi
(Bộ Nông nghiệp & PTNT)

 

I. CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI

1. Khái quát về hệ thống công trình thuỷ lợi

Các hệ thống công trình thuỷ lợi ở nước ta được xây dựng qua nhiều thời kỳ nhưng tập trung chủ yếu vào thời kỳ sau năm 1955 ở các tỉnh miền Bắc và sau năm 1975 ở các tỉnh miền Nam. Trước năm 1955, cả nước chỉ có 13 hệ thống công trình thuỷ lợi, tưới cho trên 400.000ha, tiêu nước cho 77.020 ha.

Nhờ có quan tâm đầu tư của Nhà nước và nỗ lực đóng góp của nhân dân đến nay nước ta đã xây dựng được gần 100 hệ thống thuỷ lợi lớn và vừa do các doanh nghiệp KTCTTL quản lý, vận hành với các số liệu cụ thể như sau:

- 1959 hồ chứa có dung tích trữ lớn hơn 0,2 triệu m3, tổng dung tích trữ 24,8 tỷ m3 (tổng năng lực thiết kế tưới đạt khoảng 505.000 ha);

- Trên 1.000 km kênh trục lớn và hàng vạn km kênh mương các cấp.

- Hơn 5.000 cống tưới, tiêu lớn và 23.000 km đê, bờ bao các loại.

- Khoảng 2.000 trạm bơm lớn và hàng ngàn trạm bơm nhỏ do 110 doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi thuộc Nhà nước và các tổ chức tập thể và tư nhân quản lý.

Theo thời giá năm 2006, ước tính cơ sở vật chất thủy lợi do các doanh nghiệp quản lý trị giá tương đương khoảng trên 120.000 tỷ đồng. Để đảm bảo quản lý khép kín nhằm khai thác tối đa năng lực của các hệ thống công trình, ngoài 110 doanh nghiệp khai thác CTTL quản lý các công trình thuỷ lợi đầu mối lớn, kênh trục chính, cả nước còn có trên 13.000 tổ chức hợp tác dùng nước (gồm các loại hình HTX nông nghiệp có làm dịch vụ tưới, Hợp tác dùng nước chuyên khâu, các tổ, đội... ) làm chức năng “cầu nối” giữa các doanh nghiệp của Nhà nước và các hộ sử dụng nước.

Tổng số cán bộ, công nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khoảng gần 22.600 người, trong đó có khoảng  10,5% có trình độ kỹ sư, 14,9% là cán bộ trung cấp, 53,5% là công nhân, trên 21,1% là lao động chưa được đào tạo, đã hạn chế khả năng phục vụ của đội ngũ công nhân trong khai thác công trình thủy lợi.

Bên cạnh lực lượng cán bộ, công nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước, còn có hàng vạn công nhân viên thuỷ nông hoạt động trong các tổ chức hợp tác dùng nước nhưng không qua trường lớp đào tạo cũng là một nguyên nhân trong việc phát huy hiệu quả của các công trình thuỷ lợi.

2/ Kết quả của thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế xã hội

Hệ thống công trình thuỷ lợi là cơ sở kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu hạ tầng. Kết quả thực tế sản xuất và xã hội nhiều năm qua đã khẳng định những hiệu quả mà các hệ thống công trình thuỷ lợi mang lại là hết sức to lớn, không chỉ đối với sản xuất nông nghiệp, các ngành kinh tế khác mà còn đối với sự nghiệp phát triển nông thôn, môi trường sinh thái. Trong điều kiện thiên nhiên biến động gay gắt như nước ta, các công trình thuỷ lợi đặc biệt là các hồ chứa nước có tác dụng phòng, chống và điều tiết lũ cho hạ du; các công trình trạm bơm, cống dưới đê chống lũ và công trình tiêu nước khác tiêu nước cho cả xã hội, dân sinh.

Ở nước ta trước đây, nhiều vùng khi có công trình thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu, giá đất đang sản xuất tăng 5-6 lần, giá đất có khả năng khai hoang tăng 15÷20 lần. Trong thực tế sản xuất nhiều nơi đã cho thấy hiệu quả do nước chiếm 30÷40% sản lượng thực tế, tài liệu nghiên cứu của FAO và truyền thống ở vùng Bắc khu 4 và Duyên hải miền Trung. Trong thực tiễn, mỗi nước có điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau có cách xử lý đầu ra khác nhau. Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay thì chính sách thuỷ lợi phí phải là một chính sách lớn có liên quan chặt chẽ đến đường lối, chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt là đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân.

Riêng đối với sản xuất nông nghiệp, thuỷ lợi không đơn giản là biện pháp kỹ thuật hàng đầu mà nhiều nơi là điều kiện sản xuất, là tiền đề phát huy hiệu quả của các biện pháp khác như khai hoang, phục hoá, tăng diện tích, chuyển vụ, đưa các giống mới có năng suất cao và kỹ thuật thâm canh vào sản xuất đại trà. Theo thống kê, năm 2006, tổng diện tích được tưới của cây hàng năm là 8,33 triệu ha trong tổng số 11,561 triệu ha gieo trồng các loại, trong đó tưới cho lúa khoảng 6,88 triệu ha, hoa màu và cây công nghiệp hàng năm đạt 1,45 triệu ha, tiêu cho trên 2 triệu ha đất nông nghiệp. Cấp nước sinh hoạt và công nghiệp trên 5 tỷ m3/năm, cấp nước và tạo điều kiện nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch góp phần đáng kể vào xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo; chuyển dịch cơ cấu cây trồng; cải thiện điều kiện môi trường, giao thông.

Các biện pháp thuỷ lợi đã góp phần cùng những biện pháp kỹ thuật nông nghiệp khác, cùng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp đã góp phần đưa sản lượng lương thực nước ta đạt 21,5 triệu tấn năm 1990 lên 31,8 triệu tấn năm 1998, 34,5 triệu tấn năm 2003, năm 2006 ước đạt 39,65 triệu tấn, giữ vững là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới.

Thuỷ lợi tạo điều kiện và phục vụ phát triển thuỷ sản, thông qua việc tận dụng các hồ chứa nước nhân tạo để nuôi trồng thuỷ sản. Bên cạnh đó, các hệ thống thuỷ lợi đưa nước vào các trại cá, các hồ ao nuôi cá, tôm đã tạo ra nguồn lợi thuỷ sản to lớn của cả nước. Thuỷ lợi phục vụ sinh hoạt, phục vụ công nghiệp. Nhiều hệ thống thuỷ lợi đều dẫn nước qua làng, bản, thị trấn thành phố nên đã cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân, có nhiều hệ thống cung cấp nước cho thành phố, thị xã như Núi Cốc, sông Chu, Dầu Tiếng,... Các hệ thống thuỷ lợi đã góp phần cải tạo môi trường sinh thái, biến nhiều vùng hoang vu xưa kia thành những vùng dân cư trù phú, điểm tham quan du lịch, nghỉ mát hấp dẫn. Nhiều vùng trước đây ngập úng quanh năm, nhờ tiêu kiệt nước trở nên khô ráo, không những tạo điều kiện cho sản xuất, sinh hoạt mà còn giảm nhiều bệnh tật.

3/ Một số hạn chế, tồn tại của các công trình thuỷ lợi hiện nay

3.1. Các công trình mới đảm bảo tưới, tiêu ổn định trong những năm thời tiết bình thường, tần suất tưới thiết kế mới đạt 75%. Những năm mưa ít, những vùng tưới trực tiếp bằng dòng chảy cơ bản, vùng cuối kênh còn bị hạn. Giai đoạn làm đất vụ đông xuân các tỉnh miền Bắc và đầu vụ hè thu nguồn nước tưới vẫn thường khó khăn.

Ở miền Bắc mới có công trình đảm bảo tiêu úng trong điều kiện thời tiết như thiết kế (mưa 250mm/3 ngày). Hàng năm còn úng gần 100.000 ha, vào những năm mưa lớn diện tích úng còn lớn hơn, năm cao nhất tới 380.000 ha (1996). Do chất lượng tưới tiêu trên một số vùng còn hạn chế nên sản lượng lúa còn bấp bênh, nhất là vụ mùa ở miền Bắc và khu 4 cũ.

3.2. Nhiều công trình, hệ thống công trình thuỷ lợi được xây dựng đưa vào khai thác đã lâu, yêu cầu nguồn kinh phí lớn để kiên cố, nâng cấp sửa chữa. Hệ thống kênh mương tưới, tiêu hiện nay chủ yếu vẫn chưa được gia cố, kiên cố nên hiệu suất dẫn nước chưa cao, gây tốn kém kinh phí quản lý khai thác, lãng phí nước. Hệ thống kênh chìm bị bồi lắng không được nạo vét dẫn đến hiệu quả khai thác, sử dụng còn hạn chế.

- Một số hồ chứa hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, cần nguồn kinh phí để nâng cấp, đảm bảo an toàn. Trong khi đó, các trạm bơm, đặc biệt là các trạm bơm thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng được khai thác đã lâu, hiệu suất sử dụng không cao, gây lãng phí điện, nước và chi phí quản lý khai thác, cần được đại tu, nâng cấp sửa chữa.

- Nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi kênh mương mặt ruộng chưa đồng bộ với các hệ thống đầu mối đã được Nhà nước đầu tư xây dựng, do vậy việc phát huy hiệu quả của cả hệ thống chưa cao.

3.3. Nguyên nhân của những nhược điểm trên trước tiên phải nói đến yêu cầu thuỷ lợi phục vụ sản xuất ngày càng cao và diễn biến phức tạp của thời tiết, khí hậu. Trong khi khả năng dự báo còn hạn chế, việc quản lý, điều hành các công trình thuỷ lợi đối phó kịp với biến động gay gắt của thời tiết là việc làm rất khó khăn, phức tạp.

Mặt khác, do khả năng đầu tư ban đầu hạn chế, hầu hết các công trình đã xây dựng chưa đồng bộ, chưa được trang bị kỹ thuật mới, mức đảm bảo thấp. Trong những năm của thời kỳ bao cấp những vùng có công trình thuỷ lợi mức đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế cũng như yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay.

3.4. Trong thực hiện khoán đến hộ nông dân, tổ chức và hoạt động của các tổ chức hợp tác dùng nước còn lỏng lẻo, việc lấy nước, tháo nước trong hệ thống điều hành khó khăn hơn. Vẫn còn hiện tượng tự tiện đặt cống, máy bơm, xẻ kênh lấy nước khá phổ biến gây lãng phí nước, làm tăng chi phí quản lý. Công tác bảo vệ, gìn giữ công trình chưa được các cấp chính quyền quan tâm đầy đủ, mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 140/2005/NĐ-CP ngày 11/11/2005 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý, khai thác và  bảo vệ công trình thuỷ lợi.

 

II. SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ BAN HÀNH VÀ THIẾT LẬP HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ

1/ Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chính sách thuỷ lợi phí

Đối với mỗi hệ thống tưới tiêu cụ thể, việc thiết lập mức thu thuỷ lợi phí đối với sản xuất nông nghiệp phải dựa vào điều kiện thực tiễn của từng quốc gia, đặc biệt là điều kiện kinh tế xã hội và mức sống của người dân để quyết định. Hầu hết các nước, việc thu thuỷ lợi phí (giá nước) chỉ đề trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng và hầu như vẫn chưa đủ chỉ bù đắp được khoảng 20-70% cho phí vận hành và bảo dưỡng, thấp nhất là Ấn độ và Pakistan chỉ hu hồi được 20-39% chi phí vận hành và bảo dưỡng, cao nhất là Madagasca cũng chỉ thu hồi được khoảng 75% chi phí vận hành và bảo dưỡng và nước này đang có một cuộc cách mạng về công tác tài chính cho vận hành và bảo dưỡng. Hầu hết các nước không thu hồi chi phí đầu tư kể cả các nước công nghiệp phát, tỷ lệ thu hồi chi phí đầu tư cũng rất thấp như Canada và Italy. Thực tế hiện nay, cả các nước phát triển và đang phát triển cũng đang tính lại chính sách về phí sử dụng nước và một số nước đã bắt đầu thu lại ít nhất một phần kinh phí đầu tư ban đầu từ người sử dụng như Australia và Brazil.

Kinh nghiệm ở Trung Quốc

Chính phủ ban hành chính sách về giá nước mang tính nguyên tắc (quy định khung), giao quyền cho địa phương trực tiếp quản lý công trình quy định cụ thể cho phù hợp trên cơ sở lợi ích kinh tế và mức chi phí thực tế đã sử dụng, mức chi phí tính toán và ý kiến tham gia của người dân.

Giá nước bao gồm các khoản mục:

+ Các loại khấu hao

+ Chi phí quản lý vận hành

+ Các loại thuế và lãi

Cơ cấu giá nước bao gồm:

+ Đảm bảo chi phí cho đơn vị quản lý vận hành

+ Đảm bảo tính công bằng (dùng nước phải trả tiền, dùng nhiều trả nhiều, dùng ít trả ít)

Kinh nghiệm của Trung quốc cho thấy từ khi bắt đầu thu thuỷ lợi phí (giá nước), việc sử dụng nước được tiết kiệm hơn, đặc biệt là từ khi thuỷ lợi phí được tính bằng m3. Nhưng điều này cũng là một thách thức đối với các đơn vị quản lý, điều này đòi hỏi đơn vị quản lý công trình thuỷ lợi phải có các biện pháp để quản lý tốt, giảm các tổn thất để có nhiều nước bán cho nông dân theo yêu cầu của họ và giảm thiểu chi phí.

Giá nước tưới có chính sách riêng, được quy định phù hợp với điều kiện cụ thể, mang tính công ích và căn cứ vào chi phí thực tế. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các trường hợp sau:

+ Vùng nghèo khó khăn, mức sống thấp.

+ Khi công trình hư hỏng nặng cần phải sửa chữa.

+ Hỗ trợ chi phí cho diện tích tiêu phi canh tác.

+ Hỗ trợ chi phí tiền điện tưới tiêu.

+ Khi có thiên tai gây mất mùa phải giảm mức thuế sử dụng đất.

Tuỳ theo loại hình công trình, tự chảy hay động lực, điều kiện cụ thể của hệ thống công trình để quy định mức thu và có chính sách hỗ trợ. Cơ quan nào quyết định miễn giảm giá nước tưới thì cơ quan đó có trách nhiệm cấp bù hỗ trợ tài chính cho đơn vị quản lý công trình thuỷ lợi.

Kinh nghiệm ở Australia

Tại lưu vực miền nam Murray-Darling năm 1992 thuỷ lợi phí từ nông nghiệp thu đáp ứng được 80% chi phí vận hành và bảo dưỡng và đến năm 1996 thu được 100% chi phí vận hành và bảo dưỡng. Giá nước cũng khác nhau giữa các vùng. Ở bang Victoria mức thu gần đảm bảo chi phí vận hành và bảo dưỡng (năm 1995), ở New South Wales thu trong nội bang thu khoảng 0,92 USD/1000m3 (chỉ tương đương khoảng gần 13 đ năm 1995) trong khi đó nếu nước được đưa sang bang Victoria thì giá nước tăng hơn 3,6 lần giá nước trong nội bang New South Wales. Tương tự như vậy ở bang Queensland giá thu trong nội bang khoảng 1,5USD/1000m3 trong khi đó giá nước khi chuyển ra ngoài ranh giới bang tăng hơn 4,2 lần; cuối cùng đối với vùng miền nam, lưu vực Muray-Darlinh năm 1991-1992 mức thu đồng đều hơn 7,8USD/1000m3 (tương đương với 80% phí vận hành và bảo dưỡng, và từ năm 1992 trở đi giá nước cao hơn giá thành là 11% để thu hẹp khoảng cách giữa chi phí đầu tư và thu hồi vốn.

Kinh nghiệm ở Mỹ

Mỹ là một quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú.

+ Trước kia thuỷ nông địa phương (xí nghiệp thuỷ nông huyện hoặc tỉnh) thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở chi phí vận hành và bảo dưỡng cho các vùng đất canh tác khác nhau. Ví dụ mức thu đối với những vùng tưới động lực sẽ cao hơn mức thu những vùng tưới tự chảy.

+ Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhà nước đã xây dựng luật mà nó bao hàm cả việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Thuỷ lợi phí đã được thu tăng lên đáng kể. Ví dụ: thời điểm năm 1988 thuỷ nông huyên Broadview đã tăng mức thu từ 40USD/ha lên 100USD/ha với mức nước sử dụng được tính toán; năm 1987 tại thuỷ nông huyện Pacheco mức thu tính theo 2 bậc, bậc thứ nhất mức thu 90USD/ha và bậc thứ 2 thu 150USD/ha; đối với mức thu dựa trên khối lượng sử dụng ở hệ thống thuỷ nông bang Califonia tăng mức thu từ từ 4,4USD/1000m3 lên 11,9USD/100m3. Với mức thu như vậy thì thực tế đã cao hơn mức cần thiết để thu hồi các chi phí.

+ Riêng đối với hệ thống thuỷ nông bang California, thu bình quân mức 6,3USD/1000m3, và sau đó tăng lên 11,0-16,3USD/1000m3 tuỳ thuộc vào mức đảm bảo tưới; trong khi đó đối với hệ thống tưới huyện Madera mức thu tương ứng là 19,9 tăng lên 24,7-42,3USD/1000m3.

Kinh nghiệm của Pháp và một số nước châu âu

Giá nước tưới ở Pháp từ 0,049-0,171USD/m3 (nước tưới) và thu 0,022USD/m3 nước thải trở lại sông. Mức thu của các tổ nhóm nông dân 0,081$/m3 (giá ở trên là tính đối với tự chảy còn đối với những vùng phải bơm động lực thì giá phải cộng thêm chi phí bơm nên giá sẽ cao hơn mức trên).

Đối với một số nước ở châu Âu khác như Hy Lạp, trong sản xuất nông nghiệp có mức tưới khoảng 6000-12.000m3/ha, thuỷ lợi phí thu ở mức 187,5-350USD/ha đối với diện tích canh tác lúa, còn đối với các loại cây trồng khác tư ở mức từ 87,5-218,75USD/ha tuỳ theo loại cây trồng.  Ở Italy, nước sử dụng cho nông nghiệp thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở diện tích và mức thu khác nhau giữa các vùng từ 22,11-82,36USD/ha (trung bình 37,38USD/ha đây là mức thu kế hoạch) nhưng thực tế chỉ thu được khoảng 80% so với kế hoạch và chỉ đảm bảo được khoảng 60% chi phí vận hành và bảo dưỡng.

Ở Tây Ban Nha thuỷ lợi phí nông dân phải trả hầu hết toàn bộ chi phí từ xây dựng cơ bản, quản lý vận hành hệ thống thuỷ nông và cả quản lý cấp lưu vực. Có 3 cách tính thuỷ lợi phí: dựa trên diện tích; dựa trên khối lượng sử dụng hoặc kết hợp cả hai cách trên. Thuỷ lợi phí trung bình ở thời điểm năm 1994 khoảng 84,7USD/ha-năm (dao động khác nhau giữa các hệ khu vực từ 8,3-266 USD/ha-năm) và từ 0.008-0,16USD/m3 sử dụng. Ví dụ ở hợp tác thuỷ lợi Grnil-Cabra vùng San Martin de Rubiales quản lý kiểu hợp tác xã, tổng thuỷ lợi phí cho tưới bằng bơm nông dân phải trả là 258USD/ha-năm trong đó khoảng 112,5USD/ha-năm (phần cứng) 145,8USD/năm (phần mềm) trên cơ sở khối lượng sử dụng.

Kinh nghiệm ở Brazil và một số quốc gia khác

Về chính sách thuỷ lợi phí được tính bằng 2 mức thu gọi là K1 và K2. Mức thu K1 = 3,69USD/ha-tháng trên cơ sở tính kinh phí xây dựng công trình và lãi xuất ưu đãi trong 50 năm tuổi thọ của công trình, kinh phí này được chuyển trả ngân sách Liên bang. Mức thu thuỷ lợi phí chi cho công tác vận hành và bảo dưỡng dao động từ 3-40USD/1000m3 phụ thuộc vào công trình do nhà nước hay tư nhân đầu tư và phụ thuộc vào tưới tự chảy hay tưới bằng bơm điện. Tuy nhiên mức thu thuỷ lợi phí cho vận hành và bảo dưỡng cũng có thể theo loại cây trồng, đối với cây trồng giá trị kinh tế thấp mức thu trung bình khoảng 20USD/1000m3, đối với cây trồng giá trị kinh tế cao mức thu dao động từ 50-400USD/1000m3.

Tunisia là một quốc gia đang phát triển ở Châu phi có nguồn tài nguyên nước tính theo đầu người gần tương đương với Việt nam. Thuỷ lợi phí thu để đảm bảo chi phí vận hành và bảo dưỡng, mức thu này dao động từ 0,012-0,037USD/m3.

Kinh nghiệm ở Namibia: Thuỷ lợi phí gồm hai thành phần là giá cứng tính theo diện tích mức thu là 15,6USD/ha-năm cộng với giá dịch vụ tưới (vận hành và bảo dưỡng) là 40,4USD/ha-năm

Kinh nghiệm ở Algeria: đây là quốc gia đang phát triển ở Bắc Phi có tài nguyên nước rất khan hiếm. Thuỷ lợi phí thu gồm hai thành phần là phần cứng tính theo diện tích ha và phần mềm tính theo khối lượng nước sử dụng. Mức thu thuỷ lợi phí không ngừng tăng lên từ năm 1995  phần mềm mức thu từ 1-1,25USD/m3 vào năm 1995). Phần mềm không thay đổi từ 0,02-0,03USD/m3 nước sử dụng.

Ấn Độ: mức thu  dao động ở mức từ 6-1000Rs/ha. Mức thu thuỷ lợi phí cũng tính theo diện tích và loại câu trồng. Cũng trong thời gian từ 1979-1990, mức thu đối với lúa nước từ 40-220Rs/ha tuỳ theo vùng lãnh thổ, mức thu đối với lúa mỳ từ 29-143Rs/ha và mức thu đối với mía từ 62-830Rs/ha.

Pakistan là một quốc gia đang phát triển, đông dân và có chỉ số nguồn tài nguyên nước tính trên đầu người hàng năm tương đương với Việt nam. Mức thuỷ lợi phí là rất thấp 0,55USD/ha-vụ, ngô 0,33USD/ha-vụ, thuỷ lợi phí thu từ nông dân khoảng 20% chi phí vận hành và bảo dưỡng còn lại là nhà nước trợ cấp.

Đài Loan:  Trước năm 1991, mức thu dao động từ 20-300kg thóc/ha-năm tuỳ theo vùng, điều kiện nước... (nông dân trả thuỷ lợi phí bằng tiền dựa trên giá thóc). Mức thu đó nhìn chung tương đương 2% tổng chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (dao động từ 0,44-7,66%). Đến năm 1991, Chính phủ trợ cấp 1,43 tỷ nhân dân tệ (tương đương 52 triệu USD) và thuỷ lợi phí thu ở mức đồng đều là 20kg/ha-năm. Đến năm 1992, tổng trợ cấp thuỷ lợi phí từ nhà nước và địa phương là 1,87 tỷ NT$ (68 triệu USD) trong đó ngân sách trung ương chiếm 74% và ngân sách địa phương 26%. Mức trợ cấp như vậy tương đương với mức hỗ trợ hàng năm là 183USD/ha đất canh tác.

2/ Sự cần thiết phải ban hành các chính sách thuỷ lợi phí

Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền thông qua thu nhập quốc dân, bổ sung vào nguồn tài chính quốc gia cũng như tăng thu nhập của người dân, nhưng cũng có những hiệu quả hết sức to lớn mà khó định lượng được, đó là những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn... Những kết quả đó càng khẳng định chủ trương đầu tư phát triển công tác thuỷ lợi của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn và hiệu quả.

Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống công trình này, hiện nay, đã hình thành một hệ thống các tổ chức để quản lý, khai thác các công trình như sau:

-  Cấp quản lý các công trình đầu mối, kênh trục chính (cấp 1, cấp 2): bao gồm gần 110 doanh nghiệp quản lý, khai thác chủ yếu là các công trình đầu mối, kênh trục chính chưa bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

-  Cấp quản lý các công trình thuỷ lợi nhỏ, mặt ruộng: khoảng 13.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý, KTCTTL, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập...

-  Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: bao gồm Ban Quản lý KTCTTL công trình liên huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, Chi cục Thuỷ lợi, Công ty Xây dựng thuỷ lợi cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Muốn đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn, hàng năm yêu cầu phải có một khoản kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt.

Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi. Vì vậy, ngay từ năm 1962, Hội đồng chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn.

Để nâng cao trách nhiệm của người hưởng lợi về nước từ công trình thuỷ lợi, có thêm kinh phí phục vụ cho quản lý, duy tu, vận hành, ngày 25/8/1984 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 112-HĐBT thay thế cho nghị định số 66/CP nói trên, quy định mức thu thuỷ lợi phí mới theo tỷ lệ % năng suất lúa (4÷8%).

Tuy nhiên, Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 nói trên được ra đời trong giai đoạn đất nước còn bao cấp nặng nề, sau gần 20 tồn tại không còn phù hợp với quá trình biến đổi của xã hội hiện nay như mức thu thuỷ lợi phí của địa phương đều ở mức thấp so với mức quy định của Nghị định, thường chỉ từ 3÷5% năng suất, tình trạng thất thu thuỷ lợi phí do dân nợ đọng, chiếm dụng thuỷ lợi phí sử dụng vào các mục đích khác của địa phương, cộng với giá đầu vào (điện, xăng dầu, nguyên nhiên vật liệu) luôn biến động theo chiều hướng tăng trong khi mức thuỷ lợi phí vẫn giữ nguyên theo mức cũ nên không đảm bảo cho các Doanh nghiệp KTCTTL hoạt động.

Để tháo gỡ khó khăn về tài chính cho các Doanh nghiệp KTCTTL, Chính phủ đã ban hành Nghị định 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, trong đó có quy định mức thu thuỷ lợi phí mới bằng tiền, đồng thời quy định mức thu tiền nước đối với các đối tượng sử dụng nước khác: cấp nước tưới cây công nghiệp, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, du lịch, phát điện... Thực hiện quy định của Nghị định này, đến nay cả nước có khoảng 46 tỉnh đã ban hành mức thu thuỷ lợi phí mới, các địa phương khác đang triển khai đề án thu theo quy định mới, tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn gặp một số khó khăn.

3/ Cơ sở xây dựng các chính sách và thiết lập mức thuỷ lợi phí

Việc đề ra chính sách thuỷ lợi phí là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc giúp cho chúng ta có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng công trình, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng xã hội, chúng ta còn nâng cao được ý thức tiết kiệm của người nông dân trong việc sử dụng nước, trách nhiệm trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi. Các chính sách về thủy lợi phí đã được ban hành và áp dụng trên cơ sở như sau:

2.1. Đối với Nghị định 66/CP ngày 5/6/1962

Nghị định 66/CP là văn bản pháp lý đầu tiên của Chính phủ ra đời quy định về mức thu thuỷ lợi phí trong các hệ thống thuỷ lợi. Tuy nhiên, Nghị định này chỉ được thi hành đối với tất cả các hệ thống nông giang thuộc loại đại thuỷ nông, còn đối với những hệ thống trung thuỷ nông thì Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh sẽ căn cứ vào điều lệ này để quy định việc thu thuỷ lợi phí sao cho sát với hoàn cảnh địa phương nhằm mục đích tổ chức việc quản lý, khai thác sử dụng tốt hệ thống nông giang, phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Nghị định này được ban hành nhằm tăng cường công tác quản lý và khai thác các hệ thống nông giang, làm cho việc đóng góp của người dân được công bằng, hợp lý, đảm bảo đoàn kết ở nông thôn, đồng thời tạo điều kiện tiến lên, quản lý các hệ thống nông giang theo chế độ hạch toán kinh tế, thúc đẩy việc tiết kiệm nước, hạ giá thành quản lý để phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp.

Mức thuỷ lợi phí - được gọi là phí tổn về quản lý và tu sửa các hệ thống nông giang sẽ được căn cứ vào lợi ích hưởng nước của ruộng đất và phí tổn về quản lý và tu sửa của hệ thống nông giang tuỳ theo từng loại. Thủy lợi phí được quy định để chi các khoản như: “Trả lương cho cán bộ, công nhân của nông giang và chi cho việc quản lý, khai thác, tu bổ sửa chữa thường xuyên trong hệ thống nông giang để tiến tới xây dựng các xí nghiệp địa phương

2.2. Đối với Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984

Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã quy định “thuỷ lợi phí bao gồm các khoản:

- Khấu hao cơ bảo, khấu hao sửa chữa lớn và chi phí sửa chữa thường xuyên các máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải và các phương tiện khác dùng vào việc duy trì, khai thác và quản lý các công trình thủy nông, không kể khấu hao cơ bản các máy bơm lớn;

- Chi phí sửa chữa lớn, tu bổ, sửa chữa thường xuyên các công trình xây đúc và bằng đất, ngoài số nhân công do nhân dân đóng góp;

- Chi phí về điện và xăng dầu;

- Chi lương cho cán bộ, nhân viên và chi phí quản lý của các xí nghiệp thuỷ nông”.

Như vậy, cơ sở để thiết lập mức thuỷ lợi phí của Nghị định số 112-HĐBT đã có sự thay đổi nhiều so với Nghị định số 66/CP. Cơ cấu mức thu thuỷ lợi phí trong nghị định 112-HĐBT đã có đề cập tới một phần khấu hao cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn của các máy móc, thiết bị nhà xưởng và một số loại công trình thuỷ lợi khác, do đó mức thu đã có sự khác biệt so với mức thu của Nghị định 66/CP trước đây.

Mặc dù vậy, để giảm nhẹ mức thu thuỷ lợi phí, trong quy định của 112-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng tạm thời chưa tính khấu hao cơ bản các công trình xây đúc và bằng đất và khấu hao cơ bản các máy bơm lớn, xem đây như một khoản trợ cấp của nhà nước đối với nông nghiệp. Khi cần trang bị thêm hoặc thay thế các máy bơm lớn, ngân sách Trung ương cấp trực tiếp cho Bộ Thuỷ lợi (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) qua kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm.

Nghị định 112-HĐBT ban hành đã tạo một tiền đề rất lớn trong hoạt động của các doanh nghiệp thuỷ nông, tuy chưa đáp ứng được hết yêu cầu thực tế nhưng nó đã giúp cho các doanh nghiệp nhà nước về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi có nguồn thu, đáp ứng được các yêu cầu vốn cho duy tu bảo dưỡng công trình an toàn phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp. Tuy vậy, do được ban hành trong thời kỳ bao cấp, và đã được áp dụng quá lâu, nhiều điểm không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nên Nghị định 112-HĐBT đã được sửa đổi, bổ sung.

2.3. Đối với Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003

Để khai thác tối đa năng lực các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có, gắn trách nhiệm với quyền lợi của người dùng nước, giảm bớt gánh nặng bao cấp của Nhà nước trong lĩnh vực thuỷ lợi, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã trình Chính phủ ban hành chính sách về tiền nước và thuỷ lợi phí theo quy định tại Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi với các cơ sở như sau:

 a) Quan điểm về tiền nước và thuỷ lợi phí theo Nghị định số 143:

-  Nước từ công trình thủy lợi có giá trị và giá trị sử dụng, do vậy nó phải được coi là một loại hàng hoá, do đó nước phải được tính đúng, tính đủ các khoản chi phí hợp lý, đảm bảo cho các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi tồn tại và phát triển.

-  Mọi cá nhân, tổ chức sử dụng nước từ công trình thủy lợi, sử dụng công trình thuỷ lợi làm dịch vụ đều phải có trách nhiệm đóng góp tài chính cho đơn vị được Nhà nước giao quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi theo quy định.

-  Nhà nước có chính sách hỗ trợ về thuỷ lợi phí đối với người dân sản xuất lương thực, nông dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các xã thuộc diện xoá đói giảm nghèo. Tuỳ theo tình hình cụ thể từng nơi mà có tỷ lệ miễn giảm thích hợp. Phần hỗ trợ được cấp thẳng cho doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi thông qua chính sách tài chính.

-  Trường hợp gặp những năm thiên tai mất mùa sẽ có xử lý riêng theo quy định.

b) Các căn cứ để xác định thuỷ lợi phí và giá nước:

- Kinh phí đầu tư xây dựng và các chi phí quản lý, vận hành đối với từng loại công trình và hệ thống công trình cụ thể (hồ đập, trạm bơm) đã được xác định.

- Mức độ phục vụ tưới tiêu (chủ động, chưa chủ động), quy mô công trình (lớn, vừa, nhỏ), tính chất của từng loại công trình, phạm vi quản lý của một tổ chức quản lý thích hợp.

- Hiệu quả của dịch vụ cấp nước và tiêu thoát nước và yêu cầu của các hộ dùng nước khác nhau.

- Riêng đối với nước tưới tiêu cho lúa phải căn cứ vào tình hình thực tế của vùng sản xuất được tưới thông qua các chính sách hợp lý, có sự cân đối với thu nhập (lợi ích) cuối cùng của người sản xuất (nông dân), đồng thời phải tính đến khả năng hỗ trợ tài chính của Nhà nước, nhằm đảm bảo đủ kinh phí cho đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi hoạt động.

c) Cơ cấu thuỷ lợi phí và giá nước: Giá nước và thuỷ lợi phí quy định trong Nghị định 143 được xác định trên cơ sở các khoản mục chi phí chủ yếu bao gồm:

- Tiền lương, phụ cấp lương, các khoản có tính chất lương và các khoản được tính theo lương;

- Khấu hao cơ bản tài sản cố định;

- Sửa chữa lớn tài sản cố định;

- Sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;

- Tiền điện phục vụ tưới tiêu;

- Chi phí quản lý doanh nghiệp;

- Chi phí khác (bao gồm tất cả cả khoản mục nhỏ được quy định trong thông tư số 90/1997/TTLT-TC-NN ngày 19/12/1997 của liên Bộ Tài chính - Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước khai thác và bảo vệ các công trình thuỷ lợi).

Qua tính toán với các thành phần chi phí nêu trên, mức giá ứng với mức cao nhất của Nghị định số 143 và khả năng thu thực tế phải thu cũng chưa vượt quá mức tương đương 8% năng suất đã quy định theo Nghị định cũ 112-HĐBT theo thời giá tại thời điểm xây dựng chính sách thuỷ lợi mới được quy định thu bằng tiền.

Nếu tính đầy đủ các chi phí, kể cả chi phí đầu tư xây dựng và khấu hao cơ bản tài sản cố định của hạ tầng cơ sở thuỷ lợi, theo thời giá năm 2001÷2002 (thời điểm chuẩn bị ban hành Nghị định 143), hàng năm cả nước phải thu đạt trên 3.400 tỷ đồng thủy lợi phí. Tuy nhiên, do thuỷ lợi phí là chính sách nhạy cảm, đối tượng phải nộp là nông dân có đời sống khó khăn, do vậy nếu áp dụng mức thu cao được áp dụng tại khung quy định của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ cũng mới chỉ đáp ứng đủ phần chi phí quản lý, duy tu bảo dưỡng công trình, và một phần chi phí nâng cấp sửa chữa công trình (mỗi năm đạt khoảng 500÷600 tỷ đồng), nếu thu mức cao nhất cũng chưa đảm bảo hết chi phí đại tu, nâng cấp công trình, chưa tính đến khấu hao cơ bản các công trình bằng đất, xây đúc và các máy bơm lớn. Do vậy, hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, đặc biệt là công tác tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp và tiêu thoát nước là hoạt động công ích, mang bản chất phục vụ là chính, Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ.

 

III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ

1/ Cơ chế và phương pháp thu thuỷ lợi phí

Căn cứ Nghị định 143, UBND cấp tỉnh quy định mức thuỷ lợi phí áp dụng trên địa bàn tỉnh, bao gồm cả phần thuộc doanh nghiệp nhà nước quản lý và phần của các tổ chức hợp tác dùng nước. Có tỉnh (Hưng Yên, Hải Dương) quy định cụ thể khung mức thuỷ của các tổ chức hợp tác dùng nước, cũng có tỉnh chỉ quy định mức thu của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi Nhà nước, phần của các tổ chức hợp tác dùng nước chỉ quy định có tính chất định hướng, mức thu cụ thể do tập thể tổ chức đó quyết định.

Một số tổ chức hợp tác dùng nước phụ thuộc hệ thống công trình do doanh nghiệp Nhà nước quản lý, nguồn thu thuỷ lợi phí có thể chỉ là phần thuỷ lợi phí trích lại từ nguồn thu của các doanh nghiệp nhà nước, chiếm khoảng từ 10-20% tổng thu để sử dụng vào chi phí hoạt động, có nơi còn cao hơn như Quảng Ngãi chiếm 40%. Ngoài ra các tổ chức này không thu thêm của người dân, trừ khi phải huy động để xây dựng công trình kênh mương hoặc sửa chữa lớn. Cũng có nơi không quy định tỷ lệ thuỷ lợi phí trích lại (chỉ trích thưởng công tác thu một tỷ lệ rất nhỏ) nên trong quá trình hoạt động, người dân thống nhất đóng góp khoảng 3-10kg/sào/năm để phục vụ công tác thuỷ nông nội đồng.

Phương pháp thu thuỷ lợi phí được thực hiện theo quy định của từng địa phương, có nơi áp dụng phương pháp thu trực tiếp, có nơi áp dụng phương pháp thu gián tiếp. Theo quy định của Nghị định 143, đa số các địa phương  thuỷ lợi phí được giao cho Công ty KTCTTL thu trực tiếp (thông qua các xí nghiệp, trạm, cụm) ký hợp đồng với các tổ chức hợp tác dùng nước để cung cấp dịch vụ và thu, nộp thuỷ lợi phí. Đối với những địa phương theo mô hình Ban thuỷ nông hoặc tổ thuỷ nông trực thuộc UBND xã quản lý, chính quyền cơ sở vẫn tham gia thu nhưng nguồn kinh phí thu được nộp lại cho Công ty KTCTTL. Tuy nhiên có nhược điểm là sự tham gia hỗ trợ của chính quyền địa phương còn hạn chế, giá trị thuỷ lợi phí còn bị nợ đọng xảy ra trong trường hợp này. Thực tế cho thấy, ở nơi nào chính quyền cơ sở quan tâm, việc thu thuỷ lợi phí vẫn được thực hiện tốt, ít xảy ra tình trạng nợ đọng.

Một số nơi có thể do chính quyền cơ sở hoặc các tổ chức chuyên ngành khác thu như Yên Bái, Thái Nguyên, đặc biệt là các tỉnh tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long như Đồng Tháp, Bạc Liêu, Sóc Trăng...  thực hiện thu thông qua hệ thống chính quyền cơ sở. Theo phương thức này, các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi phối hợp với các cấp chính quyền lập sổ bộ thu thuỷ lợi phí và được UBND huyện, tỉnh phê duyệt giao uỷ nhiệm thu cho chính các xã phường thị trấn hoặc có thể do cơ quan thuế phối hợp với chính quyền cơ sở thu. UBND xã phường thị trấn tiến hành thu và nộp cho Chi cục thuế. Chi cục thuế được trích lại một tỷ lệ nhất định, thường từ 8-10% để bổ sung nguồn chi trả cho uỷ nhiệm thu.  Việc giao chính quyền cơ sở hoặc cơ quan thuế thu thuỷ lợi phí có ưu điểm tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở đối với công việc này. Do vậy, việc thu thuỷ lợi phí sẽ ít gặp khó khăn, số tiền thuỷ lợi phí thu được tương đối đầy đủ, đúng hạn. Tuy nhiên trong thực tế, hình thức thu này được triển khai ở những tỉnh mà tại đó vai trò của các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi mờ nhạt, đặc biệt là các tổ chức thuỷ nông cơ sở có sự tham gia của cộng đồng dân cư, có nơi thậm chí không tồn tại các tổ chức hợp tác dùng nước.

2/ Kết quả thu thuỷ lợi phí

Theo tổng hợp kết quả từ báo cáo của các địa phương, tính đến nay, đã có 46 tỉnh thành trên cả nước áp dụng mức thu thuỷ lợi phí mới, một số tỉnh đang xây dựng đề án trình Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt mức thu mới nhưng chưa được thông qua như Tỉnh Lạng Sơn, Thái Bình, Ninh Bình, Bình Định... Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở các tỉnh chưa thực hiện mức thu thuỷ lợi phí mới theo quy định của Nghị định số 143 của Chính phủ, thì nguyên nhân chính các tỉnh chưa ban hành mức thu mới chủ yếu là do cảm nhận mức thu mới cao hơn mức thu cũ quy định tại Nghị định 112-HĐBT. Tuy nhiên thực chất thì không phải như vậy.

Mặc dù một số tỉnh chưa thực hiện thu thuỷ lợi phí theo mức thu quy định của Nghị định số 143, vẫn thực hiện thu theo quy định của Nghị định 112-HĐBT nhưng vẫn đạt được số thu có giá trị cao như các doanh nghiệp thuỷ nông thuộc tỉnh Thái Bình, Thanh Hoá, Nam Định...

Cũng có một số tỉnh sau khi ban hành mức thu thuỷ lợi phí theo quy định mới đã tiến hành giảm mức thu hoặc miễn hoàn toàn thuỷ lợi phí cho nông dân như Tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên và Tp. Đà Nẵng. Cá biệt có tỉnh không triển khai thu thuỷ lợi phí được như Cà Mau hoặc đã ban hành quyết định nhưng không thu được như Hà Giang... Tuy nhiên, theo các báo cáo đánh giá thì những tỉnh không thu được thuỷ lợi phí hoặc thu được thuỷ lợi phí ở mức thấp thì công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi chưa thực sự hiệu quả.

Nhiều tỉnh xây dựng mức thu thuỷ lợi phí mới (theo Nghị định 143) tương đương với mức thu cũ (theo Nghị định 112) như Hà Tây, Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, TP. Đà Nẵng, Khánh Hoà, Tp. Cần Thơ... Thậm chí một số tỉnh có mức thu mới giảm so với mức thu cũ là Kon Tum, Gia Lai, Tuyên Quang… Ngoài ra có một số tỉnh có mức thu cao hơn so với mức thu cũ như Hà Nội, Quảng Nam, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Trà Vinh.

Bảng tổng hợp kết quả thu thuỷ lợi phí ở các vùng trên cả nước
TT
Tên vùng

Số tỉnh đã thực hiện thu TLP theo NĐ143

Tổng số thuỷ lợi phí thu được

(triệu đồng)

1

Miền núi phía Bắc

11/15

41.045

2

Đồng bằng sông Hồng

8/11

368.018

3

Bắc Khu 4

5/6

145.084

4

Duyên hải miền Trung

5/6

63.493

5

Tây Nguyên

3/5

14.577

6

Đông Nam bộ

5/8

31.772

7

Đồng bằng sông Cửu Long

10/13

125.389

 

Tổng cộng:

46/64 tỉnh

789.378

So với mức thu theo Nghị định 143, nhiều tỉnh quy định mức thuỷ lợi phí mới tương đương 80% mức trung bình của Nghị định. Một số ít địa phương quy định mức thuỷ lợi phí mới cao hơn mức trung bình của Nghị định như Nghệ An, Hà Tây, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bình Dương... và cũng có một số trường hợp, địa phương đã quy định mức thuỷ lợi phí cho một số loại hình công trình phục vụ tưới dưới cả mức thấp nhất của Nghị định 143 (đối với loại hình bơm điện).

Các tỉnh miền núi như Hà Giang, Điện Biên, Đắc Lắc… khi áp dụng Nghị định 143 thì số lượng được miễn giảm thuỷ lợi phí cho đồng bào thuộc vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn chiếm đa số, diện tích canh tác nhỏ lẻ là chủ yếu, dân trí thấp, cán bộ thủy lợi vừa thiếu lại vừa yếu nhất là cấp huyện, xã nên việc tổ chức mạng lưới quản lý toàn bộ công trình thuỷ lợi còn hạn chế, diện tích thu thuỷ lợi phí rất thấp so với diện tích thiết kế. Vì vậy, kết quả thu thuỷ lợi phí thấp. Trong khi đó ngân sách Nhà nước không cấp bù kịp thời và đủ theo số thuỷ lợi phí đã miễn giảm cho Doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, các tổ chức hợp tác dùng nước. Với tình trạng đó thì các tổ chức quản lý thuỷ nông sẽ không có kinh phí hoạt động và có nguy cơ bị tan rã.

Nhận xét:

Mặc dù số liệu ở bảng tổng hợp trên đây cũng chỉ có giá trị tương đối vì nhiều địa phương chưa thống kê, báo cáo được giá trị thuỷ lợi phí của các tổ chức hợp tác dùng nước và các tư nhân làm dịch vụ tưới tiêu phục vụ nông nghiệp thu được, nhưng thông qua bảng tổng hợp kết quả thu thuỷ lợi phí các vùng trên cả nước nhận thấy, thuỷ lợi phí chủ yếu thu được ở các vùng thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Khu 4, là vựa lúa thứ hai của cả nước sau vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Kết quả sản xuất lúa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của các hệ thống công trình thuỷ lợi. Nơi đây cũng đã hình thành một hệ thống doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi khá hoàn thiện, đầy đủ. 100% số tỉnh ở khu vực này đều có doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi và nơi đây, hệ thống tổ chức hợp tác dùng nước cũng hoạt động có hiệu quả thông qua các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Một số tỉnh có giá trị thu thuỷ lợi phí đạt ở mức cao và có công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi khá như Hà Tây mỗi năm thu đạt khoảng 45÷65 tỷ đồng, Hải Dương khoảng 50 tỷ đồng, bên cạnh đó có một số tỉnh cũng có giá trị thuỷ lợi phí thu đạt kết quả khá như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An... Tuy nhiên ở các tỉnh này tỷ lệ nợ đọng thuỷ lợi phí còn cao. Một số tỉnh có mô hình tổ chức và công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi khá, kết quả thu thuỷ lợi phí tốt, tỷ lệ nợ đọng thuỷ lợi phí thấp như Quảng Ngãi, Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Ninh, Đông Anh...

Theo báo cáo, mức thu ở hầu hết các địa phương đều quy định ở mức thấp theo khung quy định của Nghị định 143, mặc dù vậy, thực tế thuỷ lợi phí thu được còn thấp hơn yêu cầu. Bình quân cả nước, thuỷ lợi phí mới thu đạt khoảng 70÷85% so với kế hoạch. Bên cạnh đó, hiện tượng chiếm dụng, nợ đọng, sử dụng thuỷ lợi phí sai mục đích còn phổ biến, có tỉnh thuỷ lợi bị chiếm dụng tới hàng chục tỷ đồng. Một số nơi, giá trị diện tích doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi phải thực hiện thấp hơn nhiều so với giá trị thực.

Có một điều trái ngược là ở những vùng sản xuất khó khăn hay bị thiên tai, mức sống nhân dân thấp, việc trả thuỷ lợi phí rất khó khăn nhưng lại ít bị nợ đọng. Tuy nhiên, nhiều tỉnh ở vùng Đồng bằng sông Hồng hoặc Bắc khu 4, sản xuất thuận lợi nhưng cũng phổ biến tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí.

Trong chính sách thuỷ lợi phí hiện nay, chưa có biện pháp đảm bảo công bằng trong việc trả thuỷ lợi phí đối với người phục vụ tốt, xấu khác nhau, thậm chí có những đối tượng không trả thuỷ lợi phí nhưng đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi vẫn phải phục vụ, dẫn đến tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí dây dưa kéo dài, không xử lý hết được. Các đối tượng khác: như phát điện, nuôi cá, du lịch, sinh hoạt, sản xuất công nghiệp... sử dụng nước qua công trình thuỷ lợi nhưng không phải trả tiền nước hoặc trả với giá rất thấp so với thực tế sử dụng và hiệu quả công trình thuỷ lợi đem lại. Có nhiều công trình thuỷ lợi được sử dụng để làm dịch vụ du lịch nhưng đơn vị thuỷ nông không thu được thuỷ lợi phí theo quy định, tiền nước bán cho công nghiệp, sinh hoạt thu cũng chưa đạt yêu cầu như giá quy định của Nghị định do cơ chế cung cấp nước từ công trình thuỷ lợi còn nhiều bất cập.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi chỉ có nguồn thu duy nhất là thuỷ lợi phí thu được, không đáp ứng nổi các yêu cầu chi phí sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng vận hành, nên công trình bị xuống cấp, thậm chí có công trình bị huỷ liệt. Mặc dù các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi rất khó khăn về tài chính nhưng hàng năm Nhà nước hỗ trợ cho yêu cầu thực tế về quản lý, khai thác rất thấp. Một số tỉnh có cơ chế cấp bù hỗ trợ cho doanh nghiệp thuỷ nông khá tốt như Hà Nội, Tp. Đà Nẵng, Nghệ An, Tiền Giang, Vĩnh Long ... Tuy vậy, mức hỗ trợ này còn rất thấp so với nhu cầu.

3/ Vấn đề nợ đọng thuỷ lợi phí

Trong việc thực hiện chính sách thuỷ lợi phí, vấn đề khó khăn, vướng mắc lớn nhất đối với các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi không phải là việc các địa phương quy định mức thu cao hay thấp mà là vấn đề nợ đọng thuỷ lợi phí. Theo báo cáo của các địa phương, tính đến 31/12/2005, tổng số nợ đọng thủy lợi phí trên cả nước do các nguyên nhân khác nhau lên tới 377 tỷ đồng, trong đó chủ yếu phát sinh do chây ỳ không trả, dân khó khăn về kinh tế, địa phương sử dụng thủy lợi phí vào mục đích khác do chính quyền địa phương (Ủy ban nhân dân Tỉnh) quyết định miễn giảm thủy lợi phí cho người dân nhưng không cấp bù cho các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi.

 

 

 

Bảng tổng hợp nợ đọng thuỷ lợi phí đến 31/12/2005

Đơn vị: Triệu đồng

TT

Tên vùng

Tổng số thuỷ lợi phí bị nợ đọng

Tỷ lệ so với tổng số

1

Miền núi phía Bắc

 135.778

35,9%

2

Đồng bằng sông Hồng

  94.176

24,9%

3

Bắc Khu 4

  31.363

8,3%

4

Duyên hải miền Trung

  31.295

8,3%

5

Tây Nguyên

   8.777

2,3%

6

Đông Nam bộ

 26.060

6,9%

7

Đồng bằng sông Cửu Long

49.942

13,23%

 

Tổng cộng:

377.392

100%

Một số tỉnh có tỷ lệ thuỷ lợi phí nợ đọng cao, hiện nay mức nợ đọng còn nhiều như Hà Tây (22,73 tỷ đồng), Bắc Ninh (11,78 tỷ đồng), Thanh Hoá (20,98 tỷ đồng), Bình Định (10,28 tỷ đồng)... Mặc dù năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 1116/QĐ-TTg ngày 22/8/2001 trong đó có quy định miễn giảm một phần thuỷ lợi phí nợ đọng của người dân thông qua các tổ chức trung gian (doanh nghiệp và tổ chức hợp tác dùng nước), tuy nhiên sự hỗ trợ đó chỉ mang tính chất tháo gỡ khó khăn tạm thời cho doanh nghiệp, không có tác dụng thúc đẩy ý thức của người dân, do vậy mức nợ đọng thuỷ lợi phí hiện nay trên cả nước tiếp tục tăng lên.

Theo điều tra đánh giá của Cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, người dân trực tiếp hưởng lợi từ công trình thuỷ lợi nộp thuỷ lợi phí khá đầy đủ, đạt tỷ lệ 90÷98% trên số phải thu, còn việc nợ đọng thuỷ lợi phí chủ yếu nợ đọng ở các đơn vị trung gian.

Hiện nay, cầu nối giữa các doanh nghiệp thuỷ nông với nông dân chính là các tổ chức hợp tác dùng nước, tồn tại dưới các hình thức: Hợp tác xã, Uỷ ban xã trực tiếp quản lý, Trưởng thôn, các loại hình tổ chức khác rất đa dạng. Bản thân các tổ chức hợp tác dùng nước hoạt động còn khó khăn nên nhiều nơi đã thu đủ của dân nhưng không nộp đủ cho công ty thuỷ nông mà thường giữ lại một tỷ lệ nhất định (5÷10%) chi phí cho hoạt động của tổ chức đó, do vậy nợ đọng thuỷ lợi phí thường xuyên xảy ra.

Theo báo cáo của Công ty KTCTTL Bắc Hưng Hải, hiện nay nợ đọng thuỷ lợi phí của các Công ty KTCTTL thuộc tỉnh Hưng Yên (nay là Công ty KTCTTL Hưng Yên) đối với công ty thuỷ nông đầu nguồn khoảng trên 11 tỷ đồng. Khoản nợ đọng này khó có khả năng thu hồi vì được luỹ kế từ nhiều năm nay, Công ty KTCTTL của Tỉnh thu chưa đảm bảo chi phí hợp lý, ngân sách tỉnh cấp bù không đủ do vậy họ nộp thuỷ lợi phí tạo nguồn cho Công ty KTCTTL Bắc Hưng Hải cũng không đủ, hoạt động của Công ty thuỷ nông đầu mối cực kỳ khó khăn. Nay, tỉnh Hưng Yên đã miễn 50% thuỷ lợi phí cho người dân thì chắc chắn vấn đề thuỷ lợi phí tạo nguồn còn rất phức tạp.

Tổng giá trị nợ đọng thuỷ lợi phí trên cả nước hiện nay tương đương 1/2 giá trị tổng số thuỷ lợi phí thu được trên một năm. Tỷ lệ nợ đọng thuỷ lợi phí ở các địa phương còn cao là một trong những nguyên nhân khiến cho doanh thu thuỷ lợi phí không đủ trang trải cho hoạt động của doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, dẫn đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.

Theo kết quả điều tra đánh giá, nguyên nhân nợ đọng thủy lợi phí chủ yếu là do:

+ Các hệ thống công trình thủy lợi thường nằm trên địa bàn rộng, liên tỉnh, liên huyện, liên xã, phục vụ cho nhiều lĩnh vực nhiều ngành khác nhau nên nhiều nơi chưa có sự phối hợp vận hành thống nhất. Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, thuỷ lợi phí không thu được do việc áp dụng chính sách mới trong quản lý và khai thác công trình thuỷ lợi còn chưa sâu rộng, người dân vẫn chưa tiếp cận được với chính sách mới, chưa được trao đổi, tập huấn về kỹ thuật quản lý, vận hành các hệ thống thuỷ lợi nhằm phát huy hiệu quả của hệ thống.

+ Đối tượng thu thuỷ lợi phí tương đối đa dạng, phân bố ở nhiều địa phương khác nhau, lực lượng thu thuỷ lợi phí mỏng lại chưa sát với đối tượng thuộc diện nộp thuỷ lợi phí, gây thất thu lớn.

+ Quá trình đô thị hóa ngày càng nhanh đã tác động đến một số hộ nông dân có tư tưởng sản xuất cầm chừng, dẫn đến ý thức đối với việc chi trả thuỷ lợi phí không sòng phẳng.

+ Ở một số địa phương, cán bộ quản lý thuỷ lợi, đặc biệt là các cán bộ của các tổ chức hợp tác dùng nước thường xuyên thay đổi, chế độ phụ cấp đối với cán bộ thu thuỷ lợi phí chưa hợp lý nên trách nhiệm đối với việc thu thuỷ lợi phí không cao. Hơn nữa, trách nhiệm của chính quyền các cấp chưa cao trong việc đôn đốc các hộ dùng nước trả thuỷ lợi phí, tiền nước theo quy định và chính quyền một số địa phương có quan niệm việc thu thuỷ lợi phí là thuộc trách nhiệm của ban quản lý các hợp tác xã.

+ Người dân còn mang nặng tính bao cấp, ỷ lại nhà nước, trả thuỷ lợi phí không đúng hợp đồng và hợp đồng không hết diện tích tưới, không trả tiền thuỷ lợi phí, nợ nần kéo dài, không có khả năng chi trả hoặc cố tình dây dưa chờ Nhà nước miễn giảm. Nhiều địa phương còn chiếm dụng thuỷ lợi phí vào mục đích khác làm thất thoát nguồn thu, thành khoản nợ khó đòi dẫn đến nợ đọng lớn, khó có khả năng thanh toán làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.

+ Nhiều nguyên nhân khó xác định mức doanh thu, sản lượng của các đối tượng sử dụng nước để kinh doanh du lịch, nghỉ mát, an dưỡng, giải trí, nuôi trồng thuỷ sản thì tiền nước tính theo % doanh thu, sản lượng trong đó khó khăn trong việc thống nhất xác định khối lượng nước sử dụng.

4/ Sử dụng thuỷ lợi phí

Thuỷ lợi phí là một trong những nguồn thu chủ yếu của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi và các tổ chức hợp tác dùng nước. Chi phí cho hoạt động tưới tiêu của doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi được quy định tại Thông tư liên tịch số 90/1997/TTLT-TC-NN ngày 19/12/1997 của liên Bộ Tài chính - Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bao gồm 15 khoản. Tuy nhiên do thuỷ lợi phí được thu không đủ, cấp bù không đáp ứng yêu cầu, tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí xảy ra thường xuyên nên nguồn thu của các doanh nghiệp thuỷ nông không đáp ứng được các yêu cầu chi phí hợp lý.

Do nguồn thu không đáp ứng yêu cầu nên các doanh nghiệp chỉ tập trung chi cho một số hoạt động chính sau đây:

4.1. Chi phí tiền lương, phụ cấp lương, các khoản có tính chất lươngvà các khoản tính theo lương

Việc trả lương cho cán bộ, công nhân quản lý thuỷ nông cơ bản giống như lương của cán bộ công chức hành chính sự nghiệp, mặc dù hoạt động rất vất vả. Từ tình hình thực hiện tiền lương của các doanh nghiệp cho thấy, mức lương được hưởng giữa các công ty, xí nghiệp rất khác nhau phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan, không phụ thuộc vào tính chất công việc và năng lực của người lao động.

Với mức thu như hiện nay thì nhiều doanh nghiệp đã không có nguồn để trả lương cho cán bộ công nhân viên theo mức lương tối thiểu 450.000 đồng, có nơi vẫn xảy ra tình trạng nợ lương công nhân. Việc thực hiện chế độ đãi ngộ ăn ca theo quy định cũng không được thực hiện ở nhiều nơi như Hoà Bình, một số tỉnh chỉ được áp dụng ăn ca trong thời gian 4-6 tháng/năm.

Tình trạng trên đã không khuyến khích được người lao động làm việc tốt, không đảm bảo công bằng đối với người lao động trong lĩnh vực khai thác công trình thuỷ lợi.

Chi phí tiền lương so với tổng chi phí công ích của doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi hiện nay chiếm khoảng 25-45%, cá biệt nhiều doanh nghiệp chiếm trên 50%.

4.2. Sửa chữa thường xuyên tài sản cố định

Đây là một khoản chi quan trọng được quy định tại theo quyết định 211 ngày 19/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT. Theo quy định mức khung chi phí sửa chữa thường xuyên chiếm từ 15¸30% tổng chi phí hoạt động tưới tiêu hoặc 0,5¸1,1% trên nguyên giá tài sản cố định áp dụng đối với những công trình, tài sản mới được bàn giao.

Tuy nhiên, do nguồn thu hạn hẹp nên nhiều doanh nghiệp không trích đủ kinh phí cho công tác sửa chữa thường xuyên mà có kinh phí đến đâu, tu sửa công trình đến đó, hoạt động cầm chừng theo kiểu "Gọt chân cho vừa giầy". Đây là một trong những nguyên nhân làm cho công trình thuỷ lợi bị xuống cấp nghiêm trọng, từ hư hỏng nhỏ dẫn đến hư hỏng lớn. Theo tổng kết, chi phí sửa chữa thường xuyên của doanh nghiệp mới chiếm khoảng 10-15% so với tổng chi phí của doanh nghiệp.

4.3. Sửa chữa lớn tài sản cố định

Trước đây, sửa chữa lớn là hạng mục chi phí chính của doanh nghiệp thuỷ nông và được đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau, trong đó có một phần được đầu tư từ nguồn thu thủy lợi phí, được thực hiện theo trình tự đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp không thể có nguồn thu để trích cho công tác đại tu nâng cấp sửa chữa công trình, hạng mục này giờ đây chủ yếu dựa vào nguồn vốn từ ngân sách của Nhà nước.

4.4. Chi phí tiền điện bơm nước tưới tiêu:

Đối với công ty KTCTTL bơm điện thì chi phí tiền điện khá lớn, có năm mưa úng nhiều chiếm tới 30÷40% tổng chi phí tưới tiêu của doanh nghiệp và không ổn định phụ thuộc vào tình hình thiên tai. Nhưng hầu hết các công ty này không cân đối nổi giữa thu và chi. Tình trạng dân nợ thuỷ lợi phí doanh nghiệp thuỷ nông, doanh nghiệp thuỷ nông nợ doanh nghiệp kinh doanh điện xảy ra thường xuyên (Hà Tây, Bắc Ninh).

Theo quy định của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, chi phí tiền điện bơm tiêu úng và chống hạn vượt mức của năm thời tiết bình thường được Nhà nước hỗ trợ. Nhưng do nguồn thu (từ hỗ trợ ngân sách và thủy lợi phí) không cân đối được chi phí, nên nhiều doanh nghiệp KTCTTL đã phải nợ tiền điện quá nhiều, hoặc phải vay ngân hàng để trả tiền điện.

Đối với các doanh nghiệp quản lý nhiều hệ thống trạm bơm điện,

4.5. Chi trả tạo nguồn nước:

Đối với những hệ thống liên tỉnh, huyện, các công ty thuỷ nông quản lý các công trình thuộc các địa phương phải trả thuỷ lợi phí tạo nguồn cho  công ty thuỷ nông đầu mối, theo quy định của Nghị định 143 là 40÷60% doanh thu thuỷ lợi phí. Tuy nhiên, số nộp chỉ đạt khoảng 70÷90% số quy định. Vì vậy các doanh nghiệp KTCTTL đầu mối càng mất cân đối thu chi nghiêm trọng.

4.6. Chi phí quản lý doanh nghiệp và các khoản chi phí khác

Chi phí quản lý doanh nghiệp thường được duyệt chiếm khoảng trên, dưới 15% tổng quỹ lương của doanh nghiệp. Các khoản chi phí khác như khấu hao cơ bản tài sản cố định phải trích khấu hao, nguyên nhiên vật liệu phục vụ vận hành bảo dưỡng; phục vụ phòng chống lụt bão, úng hạn; chi phí đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, xây dựng chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật; chi phí cho công tác bảo hộ, an toàn lao động và bảo vệ công trình thủy lợi; chi cho công tác thu và chi khác phụ thuộc vào điều kiện thực tế và khả năng cân đối từ nguồn thu.

Đối với các tổ chức hợp tác dùng nước, nguồn thu từ thuỷ lợi phí (được trích lại hoặc từ nguồn thuỷ lợi phí nội đồng) chủ yếu được dùng trả lương ban quản lý, chi trả công dẫn nước tới mặt ruộng, chi phí quản lý vận hành công trình và chi phí nạo vét, phát dọn bờ kênh trong phạm vi tổ chức đó quản lý.

 

IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ

1/ Đánh giá về kết quả thực hiện

Qua thời gian thực hiện các Nghị định của Chính phủ về việc thu thủy lợi phí có thể rút ra một số nhận xét như sau:

1.1. Nghị định 66/CP ngày 5/6/1962 của Hội đồng Chính phủ đã được ban hành nhưng thực tế số thủy lợi phí thu được trong quá trình thực thi nghị định này là chưa thực sự đáng kể. Việc thu thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thu thủy lợi phí và tiếp đó là Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ đã đạt được kết quả đáng khích lệ.

1.2. Bình quân trong thập kỷ 90, thuỷ lợi phí thu trên cả nước thu được 431.150 tấn trong đó thu trên địa bàn các hệ thống vừa và lớn khoảng 310.000 tấn gần bằng 100% kế hoạch thu thuỷ lợi phí 440.000 tấn. Như vậy hàng năm đã có một khoản kinh phí 500 - 600 tỷ để đầu tư cho quản lý thuỷ nông, đã giảm đáng kể bao cấp của Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn thiếu khoảng 500÷600 tỷ đồng chi cho tu sửa, vận hành đảm bảo công trình an toàn chưa kể đến vốn khôi phục, nâng cấp công trình, nhưng trong nhiều năm qua phần thiếu hụt chưa được Nhà nước hỗ trợ đầy đủ dẫn đến công trình xuống cấp nghiêm trọng, nhưng tập trung vào những vùng khó khăn như vùng núi, hệ thống công trình quá cũ, xây dựng thiếu đồng bộ, vùng có nhiều thiên tai.

1.3. Ở vùng Đồng bằng Sông Hồng có tổng thu thủy lợi phí lớn nhất trong cả nước, và có xu thế tăng trong những năm vừa qua. Thủy lợi phí giai đoạn từ 1991- 1995 bình quân đạt  khoảng 150- 160 tỷ đồng; giai đoạn 1996-2000 đạt 200-240 tỷ đồng; đến nay đạt gần 400 tỷ đồng. Nhìn chung sản lượng thủy lợi phí thu được vùng đồng bằng sông Hồng tương đối ổn định và có xu hướng tăng theo thời gian. Tuy vậy, mức thuỷ lợi phí quy định của các tỉnh trong vùng ĐBSH vẫn thấp so với khung quy định của Nghị định 143.  Do mức thu quy định thấp nên thuỷ lợi phí thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chi phí thực tế cho dịch vụ tưới tiêu nên tình trạng thuỷ lợi phí bị nợ đọng trong vùng vẫn thường xuyên xảy ra.

Bên cạnh vùng Đồng bằng sông Hồng, các vùng Bắc Trung bộ (khu 4 cũ) và Duyên hải miền Trung có sản lượng thu thủy lợi phí tương đối khá, dao động ở mức trên dưới 40.000 tấn thóc/năm. Mức thu thuỷ lợi phí ở hai vùng này quy định ở mức tương đối cao,  trong khi tỷ lệ thu bình quân đạt tới trên 85%, khu vực bắc trung bộ đạt trên 90%. Có một số tỉnh đạt trên 95% như Quảng Nam, Bình Thuận, Quảng Ngãi, Phú Yên, Nghệ An... Một số Công ty KTCTTL do thu tốt thuỷ lợi phí đã đảm bảo chi phí cho duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa công trình; trả tiền điện, thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Công ty ổn định, trang thiết bị quản lý từng bước được đổi mới.

Tuy là vựa lúa lớn nhất của cả nước nhưng Đồng bằng sông Cửu Long có mức thu thủy lợi phí và giá trị thuỷ lợi phí thu được trong những năm vừa qua rất thấp, chỉ bằng 1/4 so với vùng Đồng bằng sông Hồng. Điều đó cũng thể hiện nhiều đặc thù của các hệ thống công trình thuỷ lợi cũng như nguồn nước của Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều tỉnh đã ban hành mức thu thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 143 nhưng với mức thu thấp hơn như Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng... Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được cũng thấp nhất, thường chỉ đạt trên 70% so với kế hoạch. Nơi nào thu được thuỷ lợi phí thì có kinh phí để trả lương và tu sửa công trình, nơi nào không thu thì chỉ trông chờ vào vốn do tỉnh, huyện cung cấp. Tỉnh Cà Mau hiện nay không có đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi và Tỉnh cũng không ban hành quyết định thu thuỷ lợi phí.

Kết quả thực hiện chính sách thuỷ lợi phí khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy đặc thu của hệ thống nguồn nước ở đây là hệ thống hở, hệ thống kênh rạch chằng chịt, chủ yếu là các hệ thống liên huyện, ít có công trình điều tiết do vậy thuỷ lợi phí chủ yếu là thu từ dịch vụ bơm tưới tư nhân, mức thu tuỳ thuộc vào chiều cao của cột nước bơm và thoả thuận giữa chủ bơm và nông dân. Nhiều tỉnh ban hành chính sách thu thuỷ lợi phí nhưng các đơn vị quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện chức năng quản lý khai thác như Long An, Cần Thơ, An Giang... do nhiều tỉnh ở đây thuỷ lợi phí được thu qua thuế nộp vào ngân sách rồi cấp lại cho các công ty thuỷ nông.

1.4. Nguồn thu từ thuỷ lợi phí đã tạo ra tiền đề cơ bản trong chuyển đổi cơ chế, hoạt động của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Với giá trị thuỷ lợi phí thu được đã tạo ra một nguồn kinh phí cơ bản và chủ yếu cho công tác quản lý khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi trên phạm vi cả nước, giảm bớt đáng kể được sự cấp bù từ ngân sách nhà nước.

Do có nguồn thu chủ động, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục vụ, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, tổ chức khoán quản nhằm giảm bớt chi phí, về phía người dùng nước do phải trả thuỷ lợi phí đã yêu cầu các đơn vị quản lý phục vụ có chất lượng hơn để đảm bảo sản xuất và đã có ý thức dùng nước tiết kiệm.

2/ Những vấn đề bất cập khi thực hiện chính sách thuỷ lợi phí

2.1. Mức thu thuỷ lợi phí theo Nghị định 143 đã thấp, nhưng một số địa phương quy định mức thu còn thấp hơn trong Nghị định. Tình trạng thất thu, khê nợ đọng thuỷ lợi phí và sử dụng thuỷ lợi phí sai mục đích vẫn còn phổ biến. Có nhiều địa phương người dân đã thu nộp thuỷ lợi phí đầy đủ cho các tổ chức hợp tác dùng nước nhưng tổ chức hợp tác dùng nước không nộp hoặc nộp không đủ cho doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, có nơi sử dụng vào mục đích khác.

Hiện tượng giấu diện tích, hạ mức thu thuỷ lợi phí bằng cách hạ từ tưới tiêu chủ động sang mức thu của tưới tạo nguồn, năng suất quy định mức thu thuỷ lợi phí lấy ở mức thấp hoặc đã lâu không còn phù hợp với thực tế nên gây thất thu lớn. Có nơi sử dụng nước nhưng không ký hợp đồng và cũng chây ỳ thuỷ lợi phí. Qua kết quả nhiều cuộc điều tra vẫn cho thấy tỷ lệ nợ đọng và chiếm dụng thuỷ lợi phí còn rất lớn, nhất là các tỉnh ở vùng Đồng bằng Sông Hồng và Bắc Khu 4. Điều này cũng thể hiện sự thiếu quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền đối với công tác thu thuỷ lợi phí nói chung, công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi nói riêng.

2.2. Thuỷ lợi phí đã ăn sâu vào tiềm thức của người nông dân sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên nhiều nơi, người dân vẫn còn nhầm lẫn giữa thuỷ lợi phí và thuế nông nghiệp và cho rằng Nhà nước đã miễn thuế nông nghiệp cho người dân thì phải miễn đồng thời cả thuỷ lợi phí. Người dân còn chưa thực sự rõ khái niệm và mục đích của thuỷ lợi phí là phần chi phí cần thiết cho công tác quản lý khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi của các doanh nghiệp. Đối với sản xuất nông nghiệp, thuỷ lợi phí là chi phí sản xuất được hạch toán vào sản phẩm như khoản tiền phải bỏ ra để mua vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu, thuê cày máy và người dân phải trả trực tiếp cho doanh nghiệp thông qua các tổ chức hợp tác dùng nước. Còn thuế nông nghiệp hoặc thuế sử dụng đất nông nghiệp là phần thu tài nguyên, địa tô chênh lệch và điều tiết một phần lợi tức mà người dân phải nộp trực tiếp vào ngân sách nhà nước.

2.3. Do những hạn chế trong chính sách thuỷ lợi phí nên mức thu được hiện nay chỉ bảo đảm 50÷60% yêu cầu chi phí cho công tác quản lý vận hành công trình; tình trạng thu không đủ chi là phổ biến. Các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi không thể thực hiện được kế hoạch chi phí theo các định mức kinh tế kỹ thuật, dẫn đến tình trạng công trình ngày càng bị xuống cấp. Bên cạnh đó việc đầu tư nhằm tái sản xuất mở rộng của các doanh nghiệp, việc đầu tư trang thiết bị, nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong công tác quản lý khai thác không được đáp ứng, dẫn đến hoạt động của công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ngày càng bị lạc hậu so với các ngành khác.

2.4. Một số đối tượng hưởng lợi từ công trình thuỷ lợi chưa được quy định cụ thể, đặc biệt là vấn đề tiêu nước cho các khu đô thị, công nghiệp, khu chế xuất... Nhiều đối tượng được hưởng lợi về nước từ hệ thống thuỷ lợi đã được quy định cụ thể trong Nghị định 143 như: cấp nước cho thuỷ điện, nước sinh hoạt, nước sản xuất công nghiệp, nước thải nhưng không thể thu được mức thu theo quy định do việc triển khai thực hiện Nghị định không đồng bộ, mỗi địa phương áp dụng một cách khác nhau.

2.5. Thuỷ lợi phí được quy định thu bằng tiền với giá trị cố định theo quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh trong một số năm nhất định, trong khi đó tình trạng trượt giá, lạm phát khiến giá cả thị trường luôn biến đổi theo xu hướng tăng dần, đặc biệt là các chi phí đầu vào như điện, xăng, dầu, lương công nhân... cộng với việc không được cấp bù đủ theo quy định và tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí thường xuyên xảy ra nên việc cân đối tài chính của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi luôn luôn gặp khó khăn. Trong thực tế không có doanh nghiệp nào doanh thu từ thuỷ lợi phí đáp ứng đủ các chi phí hợp lý, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn phải thực hiện hạch toán theo kiểu bình toán, "gọt chân cho vừa dày". Bên cạnh đó, tình trạng lãi giả, lỗ thật luôn xảy ra do cơ chế tài chính quy định doanh thu từ thuỷ lợi phí là giá trị được nghiệm thu mà khách hàng chấp nhận thanh toán, không nhất thiết tiền đã thu được hay chưa. Điều này dẫn đến có doanh nghiệp dư nợ phải đòi lên tới gần hai chục tỷ đồng, trong khi đó công ty không có kinh phí thực hiện cho duy tu, sửa chữa công trình, hạch toán luôn trong tình trạng có lãi (Công ty KTCTTL Bắc Hưng Hải).

2.7. Thuỷ lợi phí được quy định thu theo vụ, cuối vụ mới thu được trong khi ngay từ đầu vụ, doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi cần có kinh phí để hoạt động như trả tiền điện, mua thiết bị phụ tùng sửa chữa, trả lương....Các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi được giao tự chủ nhưng chưa chủ động được trong vấn đề tài chính, nhiều hộ dùng nước không trả đủ thuỷ lợi phí, nhưng các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi không được phép từ chối phục vụ.. Nhiều địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã quyết định miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân nhưng không được ngân sách nhà nước cấp mà chỉ giảm doanh thu nên rất bất cập trong việc hạch toán. Trong việc thu, trả thủy lợi phí, nhiều nơi còn hiện tượng chiếm dụng, sử dụng thuỷ lợi phí sai mục đích dẫn đến thất thoát thủy lợi phí nhưng chưa được chính quyền các cấp quan tâm giải quyết.

 

V. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH VỀ THỦY LỢI PHÍ

1. Quan điểm về chính sách thuỷ lợi phí

Với phương thức thu thủy lợi phí như hiện nay, hoạt động tài chính của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi gặp nhiều khó khăn, vấn đề thu, chi, cấp bù thiếu cơ sở khoa học dẫn đến trách nhiệm của doanh nghiệp trong bảo toàn vốn, chống xuống cấp công trình và năng lực phục vụ của các công trình hệ thống công trình thuỷ lợi bị hạn chế, từ đó tạo ra một vòng luẩn quẩn trong ngành thuỷ lợi từ nhiều năm nay chưa giải quyết được đó là: Thiếu vốn duy tu bảo dưỡng do không thu đủ thuỷ lợi phí Þ công trình xuống cấp  Þ Phục vụ kém hiệu quả Þ Không đáp ứng được yêu cầu của người dùng nước.

Để phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân, đảm bảo các công trình thuỷ lợi vận hành an toàn trong điều kiện hiện nay, thì việc duy trì một mức thu thuỷ lợi phí là cần thiết. Ngoài việc đáp ứng yêu cầu về vốn, giảm bớt gánh chịu của ngân sách nhà nước thì thuỷ lợi phí còn có tác dụng nâng cao ý thức của người sử dụng và người quản lý tiết kiệm nước, bảo vệ và khai thác tốt công trình thuỷ lợi. Nhưng thu mức nào thì cần phải có chính sách hợp lý, công bằng, trong đóng góp đảm bảo quyền lợi và khuyến khích sản xuất nói chung. Việc trả thuỷ lợi phí là trách nhiệm của người dùng nước, giống nhu việc họ cũng phải trả tiền điện, tiền phân, giống...

Như vậy, bài toán đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là:

- Nếu nhà nước quy định mức thu thuỷ lợi phí cao thì mức cấp của Nhà nước sẽ ít.

- Ngược lại, nếu quy định mức thấp hoặc không thu thì nhà nước phải cấp bù nhiều hơn, chắc chắn đó là gánh nặng đối với nhà nước.

2/ Mục tiêu

-  Chính sách mới góp phần tích cực ổn định chung tình hình chính trị xã hội, đặc biệt nông dân sống ở khu vực nông thôn sản xuất nông nghiệp, góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo cho người dân.

-  Giảm tối đa đóng góp của người dân, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tạo điều kiện cải thiện đời sống tinh thần cho người dân ở các vùng nông thôn.

-  Giúp các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sẽ có nguồn thu ổn định và kịp thời từ ngân sách nhà nước và thủy lợi phí, chủ động cấp kinh phí, góp phần đảm bảo mức thu nhập của cán bộ, công nhân viên thuỷ nông ngang bằng với các ngành khác ở cùng mặt bằng. Đảm bảo việc bảo toàn và phát triển vốn cho các doanh nghiệp.

3/ Đề xuất các phương án:

Trên cơ sở đó, Cục Thuỷ lợi kiến nghị Bộ trình Chính phủ các phương án về chính sách thuỷ lợi phí đối với sản xuất nông nghiệp như sau:

Phương án 1: Miễn toàn bộ thuỷ lợi phí cho các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các vùng khác chỉ áp dụng mức thu thuỷ lợi phí thấp nhất hoặc giảm 30% theo mức thu thấp nhất quy định của Nghị định 143, mức thuỷ lợi phí nội đồng giữ nguyên như quy định hiện nay.

Theo phương án này, nếu thu đủ thì hàng năm sẽ thu được khoảng 500-600 tỷ đồng và Nhà nước phải bố trí một khoản ngân sách là 1.200-1.500 tỷ đồng, trong đó để cấp hỗ trợ cho công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi ở các tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo khoảng 300-450 tỷ đồng, các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, và 800-1.000 tỷ đồng để cấp bù cho công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ở vùng khác.

Để triển khai thực hiện phương án này, thời gian tới cần sửa đổi 1) Nghị định 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy định thi hành một số điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi và 2) Cơ chế, chính sách tài chính có liên quan đến hoạt động của các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Thời gian dự kiến hoàn thiện chính sách để thực hiện năm 2008.

Ưu điểm:

-  Góp phần ổn định xã hội, cải thiện đời sống của người dân, tạo tâm lý phấn khởi người dân về dịch vụ phúc lợi công cộng của Nhà nước đối với nông dân.

-  Phương án này sẽ không gây xáo trộn lớn về mặt tổ chức đối với các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.

-  Giảm được một phần đóng góp của người dân, đặc biệt đối với những người dân ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Nhược điểm:

-  Các chính sách chưa thực sự đồng bộ, đặc biệt là với các chính sách đầu tư và một số chính sách khác cần huy động nội lực của người dân và vấn đề tăng cường xã hội hoá các ngành, lĩnh vực.

-  Cần có thời gian để xây dựng, sửa đổi bổ sung một số chính sách pháp luật quy định về thuỷ lợi phí cho phù hợp.

-  Gánh nặng cho ngân sách, tồn tại cơ chế cấp bù, xin cho do vậy rất dễ xảy ra tiêu cực nếu không có những định mức quy định cụ thể, chi tiết.

-  Cần có chính sách tài chính công bằng đối với các tổ chức hợp tác dùng nước quản lý các công trình thuỷ lợi độc lập.

Phương án 2: Trên cơ sở phân cấp, chuyển giao hợp lý các công trình thuỷ lợi cho các tổ chức hợp tác dùng nước quản lý, thực hiện miễn thuỷ lợi phí tại các hệ thống công trình thuỷ lợi do các doanh nghiệp quản lý, các tổ chức hợp tác dùng nước tự chủ về tài chính, tự thoả thuận với người dân mức thu thuỷ lợi phí để đảm bảo cho công tác quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi đã được chuyển giao, phân cấp.

Theo phương án này, các tổ chức được giao quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi lớn sẽ không thu thuỷ lợi phí từ các tổ chức của người dân, Nhà nước sẽ hỗ trợ toàn bộ kinh phí để quản lý, vận hành khai thác. Dự kiến, hàng năm nhà nước sẽ phải chi một khoảng kinh phí là 1.500-2.500 tỷ đồng để phục vụ cho công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, khoản kinh phí này sẽ phải được tăng thêm hàng năm. Tuy nhiên, khoản kinh phí nhà nước phải bỏ ra và khoản thuỷ lợi phí thu được từ các tổ chức hợp tác dùng nước sẽ thay đổi phụ thuộc vào chính sách phân cấp, chuyển giao công trình thuỷ lợi.

Để thực hiện phương án này, cần có lộ trình xây dựng, sửa đổi, thay thê các chính sách quy định về tổ chức, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi cho phù hợp. Các văn bản cần sửa đổi, bổ sung là: 1) Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, 2) Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ; 3) Văn bản hướng dẫn, quy định về việc phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; 4) Chính sách tài chính đối với các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi sau khi phân cấp; 5) Chính sách đối với người lao động, công nhân thuỷ nông dôi dư sau khi công trình được phân cấp, chuyển giao.

Sau khi triển khai thực hiện phương án này, hình thức doanh nghiệp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi có thể sẽ không tồn tại trong trường hợp doanh nghiệp đó chỉ hoạt động với một mục tiêu quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.

Thời gian hoàn thiện các văn bản pháp luật để có thể thực hiện dự kiến năm 2009.

Ưu điểm:

-  Góp phần ổn định xã hội, cải thiện đời sống của người dân, tạo cho người dân tâm lý phấn khởi về phúc lợi công cộng của Nhà nước đối với nông dân, càng làm cho người dân vững tin vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

-  Phân cấp được rõ ràng quyền lợi, trách nhiệm của tổ chức thuộc Nhà nước và các tổ chức của người dân trong công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

-  Người dân sẽ giảm được một phần gánh nặng thuỷ lợi phí khi không phải nộp thuỷ lợi phí cho doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức của họ sẽ tập trung cho việc quản lý, duy tu các công trình thuộc phạm vi được phân cấp, chuyển giao.

-  Đảm bảo nguyên tắc xã hội hoá công tác thuỷ lợi, ý thức trách nhiệm của người dân đối với công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi được nâng cao.

Nhược điểm:

-  Cần có thời gian để xây dựng, sửa đổi, thay thế các cơ chế chính sách đối với các công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Có thể có những thay đổi về hình thức tổ chức đối với các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi lớn

-  Gánh nặng bao cấp từ ngân sách nhà nước đối với công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi. Có sự không công bằng giữa các vùng được đầu tư và không được đầu tư công trình thuỷ lợi.

-  Việc phân cấp, chuyển giao quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi còn gặp nhiều khó khăn do việc các tổ chức hợp tác dùng nước ở địa phương còn yếu kém về tổ chức, con người và trong hoạt động. Nhiều nơi không có khả năng chuyển giao công trình cho tổ chức hợp tác dùng nước, vì có nơi sau khi chuyển giao một thời gian lại trả lại công trình cho Nhà nước.

Phương án 3: Giữ nguyên chính sách thuỷ lợi phí theo các quy định hiện hành, củng cố các tổ chức, đơn vị khai thác công trình thuỷ lợi, thực thi đầy đủ các chính sách đối với với các hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Theo phương án này, nếu thực hiện thu đúng, thu đủ theo mức trung bình thấp của Nghị định 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ thì hàng năm, ước tính cả nước cũng thu được khoảng 1000÷1.200 tỷ đồng từ nguồn thu thuỷ lợi phí. Mỗi năm, Ngân sách Nhà nước vẫn cần dành khoảng 600÷800 tỷ đồng để cấp bù cho hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi vì hầu hết các tỉnh vẫn quy định thu thuỷ lợi phí ở mức thấp.

Thực hiện phương án này, cần ban hành cơ chế, chính sách tài chính riêng đối với hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thay thế thông tư liên tịch số 90 trước đây. Các địa phương thực hiện phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi và các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cần xây dựng các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật cần thiết trong công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.

Thời gian thực hiện phương án: cuối năm 2007, sau khi Bộ Tài chính ban hành cơ chế, tài chính mới cho hoạt động của các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Ưu điểm:

-  Không có sự xáo trộn lớn về mặt tổ chức cũng như hoạt động của các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, vẫn phát huy được nội lực từ người dân tham gia trong công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

-  Giảm gánh nặng bao cấp từ ngân sách nhà nước.

Nhược điểm:

-  Không tạo được sự đột biến mới trong công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, vấn đề mà lâu nay vẫn được coi là yếu kém, chưa hiệu quả. Nhiều tỉnh còn chưa phân cấp rõ ràng công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi giữa các doanh nghiệp và các tổ chức hợp tác dùng nước.

-  Xảy ra tình trạng bất công bằng giữa các vùng thực hiện thu thuỷ lợi phí và những vùng không thu thuỷ lợi phí, vì có tỉnh thu ngân sách tốt sẽ miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân, những tỉnh khó khăn sẽ tiếp tục phải thu thuỷ lợi phí.

-  Xuất hiện tâm lý ỷ lại của người dân cũng như một bộ phận cán bộ, công nhân viên thuỷ nông do việc coi công trình là của nhà nước nên ít quan tâm.

 

4/ Lựa chọn phương án

Trên cơ sở quan điểm, mục tiêu của việc đề xuất chính sác thuỷ lợi phí và phân tích ưu, nhược điểm của các phương án chính sách thuỷ lợi phí đã nêu ở trên, Cục Thuỷ lợi kiến nghị Bộ trình Chính phủ cho thực hiện Phương án 2: Trên cơ sở phân cấp, chuyển giao hợp lý các công trình thuỷ lợi cho các tổ chức hợp tác dùng nước quản lý, thực hiện miễn thuỷ lợi phí tại các hệ thống công trình thuỷ lợi lớn do các doanh nghiệp quản lý, các tổ chức hợp tác dùng nước tự chủ về tài chính, tự thoả thuận với người dân mức thu thuỷ lợi phí để đảm bảo cho công tác quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi đã được chuyển giao, phân cấp.

Để thực hiện phương án này, trước hết cần phải rà soát, sửa đổi bổ sung  và ban hành các chính sách sau đây:

1)     Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

2)     Nghị định 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

3)     Văn bản hướng dẫn việc phân cấp, chuyển giao quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, trong đó quy định cả về hình thức tổ chức quản lý, khai thác.

4)     Chính sách tài chính đối với các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi sau khi được phân cấp, chuyển giao.

5)     Chính sách đối với người lao động, công nhân thuỷ nông dôi dư sau khi công trình được phân cấp, chuyển giao.

 

VI. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KHÁC CÓ LIÊN QUAN

Để đồng bộ với chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí, để nghị Chính phủ ban hành sửa đổi, bổ sung một số chính sách sau:

1.Chính sách về đầu tư

Hiện nay, Nhà nước có cơ chế đầu tư vốn xây dựng công trình đảm bảo yêu cầu đồng bộ, khép kín từ đầu mối đến mặt ruộng trên cơ sở vốn đối ứng, phân cấp, phân công về đầu tư vốn, có sự ràng buộc chặt chẽ giữa nhà nước - nhân dân, tuy nhiên nhiều nơi còn có tình trạng TW đầu tư xong đầu mối, kênh chính, trong khi đó các địa phương chưa đầu tư xây dựng công trình, kênh mương các cấp, vì người dân ở những nơi phải đầu tư công trình thuỷ lợi thường có điều kiện kinh tế khó khăn, ngân sách tỉnh không đảm bảo được, như vậy sẽ không thể phát huy được hiệu quả của hệ thống, dẫn đến lãng phí vốn đầu tư. Do vậy, đề nghị khi đầu tư công trình thuỷ lợi phải đầu tư hoàn chỉnh hệ thống từ đầu mối tới mặt ruộng.

Nhiều hệ thống thuỷ lợi đã được xây dựng và khai thác từ lâu, sử dụng quá tuổi thọ quy định, hoặc hệ thống được xây dựng nhưng chưa đồng bộ, mới có hệ thống đầu mối, còn thiếu hệ thống kênh mương mặt ruộng dẫn đến hiệu quả công trình đầu mối chưa được phát huy, để đáp ứng cho yêu cầu an toàn và phát huy hiệu quả công trình cũng như đảm bảo phục vụ sản xuất và các ngành kinh tế quốc dân khác, nhà nước cần giành một khoản ngân sách để đầu tư thay thế, sửa chữa, nâng cấp các công trình và trang thiết bị trong các hệ thống.

Bên cạnh đó, cần ban hành và thực hiện chính sách đầu tư trang thiết bị quản lý, ứng dụng các khoa học công nghệ mới trong công tác quản lý khai thác cũng là một yêu cầu hết sức cần thiết hiện nay.

2. Về tổ chức quản lý

Công trình dù hiện đại và tốt đến mấy nhưng tổ chức quản lý không thích ứng thì công trình sẽ không phát huy được hiệu quả cao, kém bền vững. Để đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả công trình thuỷ lợi, tổ chức bộ máy quản lý khai thác công trình thuỷ lợi phải được củng cố lại theo tinh thần đổi mới, kể các các tổ chức quản lý nhà nước và các tổ chức quản lý khai thác. Cần củng cố và kiện toàn hệ thống Chi cục Thuỷ lợi ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhằm đáp ứng cho yêu cầu quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở địa phương.

Tổ chức quản lý trong hệ thống thuỷ nông đã hình thành 2 cấp: Nhà nước (Doanh nghiệp, Trung tâm, Ban quản lý, Trạm quản lý, Chi cục) - Tập thể, Nông dân (Tổ chức hợp tác dùng nước...),  phải được phân công phân cấp rõ ràng, có quy chế khép kín giữa 2 cấp, đảm bảo tính thống nhất hệ thống, thực hiện việc gắn quyền lợi của người dân trong việc sử dụng nước với trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ, sửa chữa và bảo dưỡng công trình trong phạm vi hệ thống công trình trên địa bàn.

Cần có chính sách quy định về hình thức tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ ở các vùng miền trong cả nước.

3. Cơ chế chính sách tài chính

Cần ban hành và thực thi chính sách tài chính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Đảm bảo các tổ chức quản lý, khai thác công trình chủ động về tài chính, nguồn thu đáp ứng được các yêu cầu chi phí hợp lý cho công tác quản lý vận hành và duy tu bảo dưỡng công trình thuỷ lợi.

Có chính sách cho phép các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi mở rộng, thực hiện sản xuất kinh doanh đa mục tiêu (các dịch vụ xây dựng, khảo sát, tư vấn, du lịch...), tăng cường nguồn thu các đối tượng làm dịch vụ, sử dụng nước từ công trình thuỷ lợi không vào mục đích nông nghiệp để giảm bao cấp từ ngân sách nhà nước./.

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o