MÔ HÌNH QUẢN LÝ HỢP TÁC HỘI NHẬP VÙNG ĐÔ THỊ
TS Phạm Sỹ Liêm
Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam
Integrated Collaborative Management Model in Metropolitan Areas
Tọa đàm “ Quy hoạch xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội và mô hình quản lý”, 26/3/2014
Mở đầu
Nước ta hiện có hai Vùng đô thị Hà Nội và TP Hồ Chí Minh được lập quy hoạch không gian. Khác với quy hoạch vùng tỉnh và quy hoạch đô thị, các quy hoạch vùng đô thị liên tỉnh này chưa có chủ thể quản lý rõ ràng. Vùng Thủ đô Hà Nội có Ban Chỉ đạo Quy hoạch xây dựng vùng do một Phó Thủ tướng đứng đầu, còn Vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh thậm chí vẫn chưa có Ban Chỉ đạo tương tự. Thực tiễn chứng tỏ thể chế Ban Chỉ đạo với chức năng theo dõi, đánh giá và đưa ra ý kiến chỉ đạo thực hiện quy hoạch là rất yếu ớt, ít hiệu quả. Dựa trên kinh nghiệm quốc tế, bài viết này đề xuất mô hình quản lý vùng đô thị theo phương thức hợp tác và hội nhập.
Các thách thức đối với quản lý vùng đô thị
Các vùng đô thị ban đầu thường hình thành một cách tự phát, chỉ đến khi xẩy ra các hệ lụy về nhiều mặt, từ thiếu thốn dịch vụ cấp thoát nước và vệ sinh đến ô nhiễm môi trường nước và không khí, từ khan hiếm thực phẩm đến tắc nghẽn giao thông, từ thiếu thốn nhà ở đến suy giảm trật tự an ninh, v.v. thì người ta mới nhận ra là cần có hình thức quản lý nào đó.
Do không có chính quyền cấp vùng nên công tác quản lý điều hành thực hiện quy hoạch vùng hay gặp phải các thách thức chủ yếu sau đây:
1. lợi ích của các địa phương thường không đồng đều trong từng chủ đề phát triển của vùng, nhưng mỗi địa phương lại có quyền tự chủ ra quyết định dựa trên lợi ích của mình, ít sẵn sàng giảm bớt lợi ích của mình vì lợi ích địa phương khác, hoặc ngược lại không quan tâm đến chủ đề mà mình ít lợi ích;
2. đô thị hạt nhân của vùng với ưu thế sức mạnh áp đảo dễ có xu hướng lấn át các địa phương khác;
3. thói quen dựa dẫm Chính phủ và thiếu văn hóa hợp tác
Để vượt qua các thách thức nói trên, mô hình quản lý vùng đô thị phải xuất phát từ quan điểm là lợi ích của từng địa phương có thể và phải “hội nhập” với lợi ích của các địa phương khác trong vùng và có thể tìm ra công cụ/phương thức “hợp tác” thích hợp để thực hiện việc hội nhập đó. Dựa trên sự “đồng thuận” về các mục tiêu chiến lược, thể chế quản lý vùng đô thị thực ra là nhằm tạo ra sự “thỏa hiệp” trong hành động dựa trên “quan hệ đối tác” của nhiều bên có lợi ích, bao gồm cả khu vực công, khu vực kinh doanh và khu vực nhân dân. Việc hình thành thể chế như vậy là một quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần, có thể có lúc, có chỗ thất bại nhưng không vì thế mà chịu bó tay. Mô hình Cộng đồng đô thị của nước Pháp rất đáng cho nước ta tham khảo.
Cộng đồng đô thị của nước Pháp
Nước Pháp có mô hình hợp tác rất thành công của một chùm đô thị kề nhau, gọi là “Cộng đồng đô thị” (Communauté urbaine), nhằm tụ hội cùng nhau trong một “không gian đoàn kết” (espace de solidarité) để hợp tác tạo lập và thực hiện một dự án chung về phát triển đô thị và quy hoạch chỉnh trang lãnh thổ. Luật về các cộng đồng đô thị (CĐĐT) ra đời từ năm 1966, ngày nay được thay thế bằng Luật ngày 12 tháng 7 năm 1999 nhằm tăng cường thẩm quyền của CĐĐT về phát triển KT-XH, quy hoạch không gian, quản lý nhà ở xã hội, cung ứng dịch vụ công cộng như cấp thoát nước, vệ sinh, nghĩa trang, lò mổ, chợ đầu mối, vận tải công cộng, bảo vệ môi trường. Hiện nay toàn nước Pháp có 16 CĐĐT với tổng cộng 7,4 triệu dân, trong đó có 5 Cộng đồng từ 1/1/2015 sẽ được hưởng quy chế Vùng đô thị. Mỗi CĐĐT có Hội đồng Cộng đồng gồm các dại biểu thị chính (conseillers municipaux) của các đô thị thành viên.
Ngoài nước Pháp, còn có CĐĐT ở Canada, Bỉ và nhiều nước Châu Phi nói tiếng Pháp như Maroc, Mali, Ca Mơ Run, Ni Giê, Xê nê gan, Bờ biển Ngà, Ma Đa Gát Ca.
Mô hình quản lý hợp tác hội nhập vùng đô thị
Với hiểu biết còn hạn hẹp, tôi xin giới thiệu áp dụng mô hình quản lý hợp tác hội nhập vùng đô thị dựa trên quan điểm và các nguyên tắc đã nêu ở trên và kinh nghiệm tổ chức CĐĐT của nước Pháp theo 10 bước sau đây:
1) Tổ chức đối thoại (nhiều lần) giữa các chủ tịch UBND tỉnh, thành trong Vùng đô thị (có thể do Ban Chỉ đạo khởi xướng hay Phó Thủ tướng khởi xướng); Lập danh mục các lợi ích do vùng mang lại mà mỗi địa phương quan tâm;
2) Sau khi các địa phương đã chấp nhận các chính sách cần có để thực hiện quy hoạch vùng, Bộ Nội vụ soạn thảo (hoặc thuê tư vấn soạn thảo) “Quy chế Hợp tác Vùng đô thị”;
3) Thành lập “Hội đồng Hợp tác Vùng đô thị”gồm chủ tịch UBND các thành phố và tỉnh trong Vùng đô thị, do Chủ tịch thành phố hạt nhân làm chủ tịch thường xuyên của Hội đồng và một số chủ tịch tỉnh thay nhau làm Phó chủ tịch luân phiên;
4) Thành lập Ban Quản lý Hợp tác Vùng đô thị để quản lý các dự án hợp tác;
5) Thành lập Quỹ Hợp tác Vùng đô thị do các địa phương đóng góp có sự tài trợ của Chính phủ;
6) Ban Quản lý Hợp tác Vùng xây dựng Chương trình ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về Hợp tác Vùng để Hội đồng Hợp tác Vùng thông qua;
7) Triển khai thực hiện Chương trình Hợp tác Vùng;
8) Tổ chức theo dõi (hoặc thuê tư vấn theo dõi) quá trình thực hiện Chương trình Hợp tác;
9) Hàng năm lập Báo cáo đánh giá hiệu quả của Chương trình Hợp tác;
10)Tổng kết kinh nghiệm và đề xuất biện pháp hoàn thiện hoạt động của Hội đồng Hợp tác Vùng .
Kết luận
Do quá cấp bách nên tôi chỉ có thể trình bầy ngắn gọn như trên. Nếu Chính phủ thấy khả thi thì đề nghi cho triển khai một Đề tài nghiên cứu về chủ đề tổ chức quản lý hai Vùng đô thị Thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh./.
|