» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81288266

 
Tư liệu
Gửi bài viết này cho bạn bè

Phát triển thuỷ lợi ở Việt Nam giai đoạn 1996-2005
Những công trình thuỷ lợi được triển khai trong giai đoạn 1996-2005 đã góp phần xứng đáng vào thành công của công cuộc đổi mới, vào sự nghiệp phát triển thuỷ lợi to lớn và lâu dài của đất nước. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Trần Tiếp Đệ, Phó Vụ trưởng Kế hoạch (Bộ Nông nghiêp & PTNT), với những tư liệu được tổng hợp công phu.

Đầu tư phát triển thuỷ lợi giai đoạn 1996-2005

Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển thuỷ lợi thời kỳ 1996-2000 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII  tháng 7/1996 xác định là: “Phát triển mạnh mẽ hệ thống thuỷ lợi ở tất cả các vùng, đặc biệt là khôi phục, sửa chữa, nâng cấp và mở rộng hệ thống thuỷ lợi đã có ở hai vùng đồng bằng lớn của đất nước; thực hiện chương trình chống nhiễm mặn, chua phèn và chống lũ toàn diện ở đồng bằng sông Cửu long. Xây dựng các hồ chứa nước ở  các vùng trung du, miền núi  cải thiện nguồn nước sinh hoạt cho dân cư...”. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) nhiệm vụ thuỷ lợi được xác định:

- Phát triển mạng lưới thuỷ lợi bảo đảm cải tạo đất thâm canh, tăng vụ và khai thác các vùng đất mới. Hoàn thành xây dựng các CTTL kết hợp phòng tránh lũ ở miền Trung.

- Xây dựng củng cố hệ thống đê biển các công trình ngăn mặn, thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản ở ĐBSCL.

- Kiên cố hoá các tuyến đê xung yếu, tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương.

- Phấn đấu đến năm 2005 đưa năng lực tưới lên 6,5 triệu ha gieo trồng lúa và 1,5 triệu ha rau màu cây công nghiệp (tăng 60 vạn ha).

 Thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của Đại hội Đảng đề ra, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã cùng chính quyền địa phương tập trung đầu tư phát triển thuỷ lợi ở khắp mọi vùng trong cả nước. Riêng phần vốn ngân sách do Bộ quản lý đã đầu tư 16.700 tỷ đồng (giai đoạn 1996-2000 là 7.700 tỷ, giai đoạn 2001-2005 là 9.000 tỷ, trong đó vốn TPCP: 2.200 tỷ đồng), đã hoàn thành 406 công trình loại lớn, tăng thêm năng lực tưới 156 nghìn ha, tạo nguồn trên 361 nghìn ha, ngăn mặn trên 335 nghìn ha, tiêu nước trên 396 nghìn ha. Đến năm 2000 đã đạt và vượt các chỉ tiêu của Đại hội VIII đề ra, đưa diện tích tưới nước cho các loại cây trồng  đạt 7,52 triệu ha (tăng 1,1 triệu ha so với năm 1995), diện tích tiêu nước đạt 1,61 triệu ha (tăng 0,24 triệu ha so với năm 1995).  Đến năm 2005 diện tích tưới các loại cây trồng đạt 7,6 triệu ha (3 vụ), màu 1 triệu ha, tiêu úng 1,7 triệu ha, nâng mức ổn định cao hơn, vượt chỉ tiêu Đại hội IX đề ra,... góp phần đưa sản lượng lương thực (có hạt) là: 39,6 triệu tấn, tăng 13,5 triệu tấn có với năm 1995.

Các chương trình trọng điểm đều được tập trung đầu tư và đưa lại hiệu quả kinh tế cao như: Chương trình an toàn đê, kè, cống ở Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc khu 4, cứng hoá mặt đê kết hợp giao thông 5.700 km, chương trình an toàn hồ chứa nước lớn ở miền Trung, Tây nguyên, chương trình kiên cố hoá kênh mương (15.000 km kênh các loại (I, II, III)), chương trình đê biển (2.000 km), chương trình đê bao, chống lũ ở Đồng bằng Sông Cửu Long (20.000 km)... Về vùng: Chương trình kiểm soát lũ, ngọt hoá, thau chua, xổ phèn, ngăn mặn ở  ĐBSCL, xây dựng hồ đập miền Trung, Tây Nguyên, phục hồi nâng cấp các công trình thuỷ lợi ĐBSH, chương trình thủy lợi nhỏ miền núi cũng được tăng cường đầu tư.

Về nguồn vốn đầu tư: Ngoài nguồn vốn ngân sách tập trung hàng năm giao cho Bộ quản lý (vốn ODA, vốn trong nước), Nhà nước còn đầu tư vốn TPCP (giai đoạn 2003-2010) cho ngành thuỷ lợi 24.090 tỷ đồng, trong đó đầu tư:

- 25 công trình thuỷ lợi lớn: 12.450 tỷ đồng.

- Các dự án cấp bách: 2.330 tỷ đồng.

- Thuỷ lợi nhỏ miền núi: 7.000 tỷ đồng.

- Các dự án bổ sung theo đề nghị của Quốc hội: 310 tỷ đồng

- Thuỷ lợi đồng bằng sông Cửu Long: 2.000 tỷ đồng.

Kết quả thực hiện trên các vùng sau:

1- Đồng bằng sông Hồng

Là trọng điểm lương thực hàng hoá miền Bắc được thuỷ lợi hoá sớm và cao kể từ sau ngày hoà bình lập lại 1954, bước đầu đã hình thành sơ đồ khai thác hợp lý nguồn nước trong lưu vực. Các công trình thuỷ điện lớn đầu nguồn như hồ Thác Bà trên sông Chảy có công suất 108 Mw, Hoà Bình trên sông Đà có công suất 1920 Mw và đang xây dựng thuỷ điện Sơn La 3000 Mw, Tuyên Quang trên sông Gâm 322 Mw và một số hồ chứa đã xây dựng có tác dụng cắt lũ và cấp nước cho hạ du, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và chưa đáp ứng yêu cầu cho bước phát triển kinh tế xã hội cao hơn. Một số vùng ở trung du miền núi  đất dốc vẫn chưa có điều kiện phát triển thuỷ lợi ổn định.

Toàn vùng đã có 33 hệ thống thuỷ nông, trong đó có 16 hệ thống tưới tiêu lớn (có 5 hệ thống xây dựng trước năm 1945 như: hệ thống sông Nhuệ, Liễn Sơn, An Kim Hải, sông Cầu, Phù Sa), đến nay công tác thuỷ lợi đã đảm bảo tưới cho hơn 1,5 triệu ha trong đó tưới cho lúa Đông Xuân: 63 vạn ha, lúa Mùa 76 vạn ha và 20 vạn ha rau màu công nghiệp...

- Mục tiêu sản xuất nông nghiệp: Tập trung phát triển sản xuất lương thực (lúa, ngô...) cây ăn quả (nhãn, vải...) rau, hoa, cây cảnh, chăn nuôi lợn, gia cầm... nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước ngọt...

- Về thuỷ lợi: tập trung đầu tư phục hồi nâng cấp các hệ thống công trình thuỷ lợi đã có như: hoàn thành dự án vay vốn ADB khoản vay 75 triệu USD giai đoạn (1995-2000) khôi phục và nâng cấp 17 hệ thống thuỷ nông gồm 30 tiểu dự án nâng mức ổn định của 86 vạn ha về tưới, tăng 4,4 vạn và 6 vạn ha tiêu úng với 2,1 triệu hộ nông dân hưởng lợi.

- Tiếp tục thực hiện dự án thủy lợi lưu vực sông Hồng giai đoạn 2 (ADB3)  giai đoạn (2003-2007) nâng cấp 18 tiểu dự án thuỷ nông và 12 tiểu dự án chống lũ  vốn vay 148 triệu USD.

            - Một số dự án được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách tập trung hàng năm, nội dung đầu tư: chủ yếu là sửa chữa nâng cấp các công trình hiện có, bổ sung xây dựng mới các công trình đầu mối, cống, trạm bơm, kiên cố hoá kênh mương, bước đầu hiện đại hoá điều kiện quản lý vận hành. Nhìn chung ở ĐBSH vấn đề tưới đã cơ bản được giải quyết (ở mức tần suất tưới 75%). Vấn đề tiêu úng còn khoảng 4 vạn ha hệ số tiêu còn thấp, nên sản xuất vụ Mùa còn bấp bênh (nếu lượng mưa vượt quá 300 mm trong 3 ngày thì diện tích ngập úng còn lớn hơn). Do phải tiêu cả phần đất thổ cư và đô thị nên thuỷ lợi phí thu không đủ chi phí tiền điện bơm nước nên tình trạng nợ tiền điện kéo dài của các hệ thống thuỷ nông, không có kinh phí để duy tu, sửa chữa nhỏ thường xuyên, công trình xuống cấp, kết quả phục vụ tưới, tiêu giảm sút.

- Tiếp tục nghiên cứu, quy hoạch, chuẩn bị đầu tư xây dựng cho bước phát triển mới, trong đó chú trọng khai thác tiềm năng đất dốc ở miền núi, trung du, vùng bãi và vùng ven biển,... để tăng diện tích canh tác, phân bổ hợp lý lao động trong vùng, bù đắp diện tích mất đi do XDCB và phát triển dân cư.

            - Nghiên cứu và đưa ra các biện pháp bảo đảm cấp nước an toàn cho khu tam giác công nghiệp Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, đồng thời phải tiến hành một số giải pháp công trình tiêu úng triệt để cho các thành phố và các biện pháp quan trắc và sử lý nước thải cho công nghiệp và dân sinh tránh gây ô nhiễm nguồn nước.

            - Về phòng chống lũ lụt

a- Vấn đề lũ sông Hồng vẫn là hiểm họa thường xuyên, sau công trình Hòa Bình phía hạ du có những diễn biến bất lợi, xói lở cục bộ, mực nước lũ không cao song ngâm lâu ngày đe dọa sự phát triển bền vững của ĐBSH. Chống lũ luôn luôn là nhiệm vụ hàng đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng và Trung du sông Hồng - sông Thái Bình. Nhiệm vụ này ngày càng quan trọng do dân số ngày càng đông, kinh tế ngày càng phát triển, giá trị tài sản của nhân dân cũng như của Nhà nước ngày càng lớn, trong khi đó xu thế dòng chảy sông Hồng và sông Thái Bình ngày càng gia tăng.

b.       Các giải pháp chống lũ:

- Về đê điều: Mực nước lũ thiết kế đê đối với đồng bằng sông Hồng tương ứng mực nước 13,3m  tại Hà Nội và 7,21 m tại Phả Lại.  Vì ở cao độ này mực nước sông đã cao hơn mặt đất trong đê 5-7 m, luôn luôn là mối đe doạ đối với 2700 km đê được xây dựng từ ngàn năm, với chất lượng nền và thân đê yếu kém, lún, nứt nẻ, nhiều mạch đùn, mạch sủi. Càng nâng cao đê thì hiểm họa vỡ đê càng tăng, tổn thất càng lớn. Do vậy ở Trung du và Đồng bằng sông Hồng vấn đề đầu tư vật chất, kỹ thuật để đảm bảo cho sự làm việc ổn định và an toàn của hệ thống đê điều là hết sức cấp thiết, đặc biệt khi chưa có thêm các hồ chứa lớn ở thượng du. Mặt khác, hệ thống đê điều được cứng hoá kết hợp làm đường giao thông nông thôn rất thuận lợi, không chỉ là biện pháp chống lũ quan trọng và thiết thực trong những năm trước mắt mà còn là giải pháp cơ bản lâu dài để cùng với các biện pháp chống lũ khác, từng bước nâng cao mức bảo đảm chống lũ cho Thủ đô và toàn bộ Trung du, Đồng bằng sông Hồng.

- Biện pháp giải phóng lòng sông, chỉnh trị sông cùng với tuyến đê tạo thành hành lang thoát lũ để duy trì khả năng thoát lũ của dòng sông là rất quan trong. Biện pháp này cùng với việc thực hiện Nghị định số 62/1999/NĐ-CP có thể giảm được mực nước Hà Nội vào khoảng 0,30-0,60 m. Tuy nhiên đây là giải pháp rất khó khăn, tốn kém và phức tạp về đền bù, tái định cư trong việc thực hiện và kiểm soát lâu dài cũng như trước mắt.

- Biện pháp chậm lũ và phân lũ sông Đáy là biện pháp dự phòng và cấp cứu khi xảy ra tình huống khẩn cấp mà không còn sự lựa chọn nào khác. Biện pháp này gây tổn thất lớn về Dân sinh, Kinh tế và Xã hội trong vùng chậm lũ và phân lũ mà hiệu quả lại không cao, khó vận hành, chỉ có thể hạ được mực nước sông Hồng tại Hà Nội khoảng 0,20 - 0,40 m trong trường hợp phải cải tạo triệt để lòng dẫn phía hạ lưu đập Đáy.  Nhưng biện pháp này ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất không những trong thời gian phân và chậm lũ mà còn cả trong những năm tiếp theo của hơn 1 triệu dân, với trên 70.000 ha đất nông nghiệp. Tuy nhiên sau này khi có công trình Sơn La đi vào vận hành chống lũ thì hiệu quả của biện pháp phân chậm lũ sẽ giảm đi.

- Biện pháp dùng hồ chứa cắt lũ là biện pháp chủ động và mang lại hiệu quả cao hơn. Dung tích cắt lũ thường trùng với dung tích phát điện và cấp nước mùa kiệt. Hồ Hòa Bình với dung tích chống lũ 4,6 tỷ m3 (từ cao trình 88-115 m) đã giữ được mực nước lũ cao nhất tại Hà Nội là 12,47 m vào tháng 8 năm 1996. Qua tính toán có thể đảm bảo giữ mực nước Hà Nội dưới 13,3 m tương ứng với lũ các tháng 8/1945, 8/1969 và 8/1971.

- Biện pháp phi công trình bao gồm: Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn “cây to là kho nước”, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ cây trồng, dự báo, cảnh báo lũ,... cũng là một biện pháp quan trọng trong các biện pháp phòng chống lũ, lụt  và giảm nhẹ thiên tai.

Về đầu tư:

- Đầu tư đảm bảo an toàn hệ thống đê điều bằng nguồn vốn tập trung hàng năm khoảng 160 tỷ /năm. Riêng tuyến đê hữu Hồng 45km được đầu tư bằng nguồn vốn vay ADB 49 triệu USD giai đoạn 1995-2000.

- Đầu tư cụm công trình thuỷ lợi Hát Môn - Đập Đáy (cống cẩm Đình, cống Hiệp Thuận, kênh dẫn) 530 tỷ đồng vốn TPCP giai đoạn 2003-2007.

            - Tiếp tục đầu tư đê biển bằng dự án PAM 5325 hơn 20 triệu USD, hoàn thành năm 2003 và ngân sách địa phương, sức dân để duy trì và nâng mức đảm bảo chống được các trận bão có sức gió cấp 9 đến cấp 10 trong điều kiện có triều cường.

            2- Đồng bằng sông Cửu Long

           Với diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha, dân số 17 triệu người, là địa bàn kinh tế có tiềm năng to lớn về nhiều mặt, nhất là về nông nghiệp và thuỷ sản, có vị trí trọng yếu đối với sự phát triển của cả nước. ĐBSCL hiện đang đóng góp gần 50% sản lượng lương thực, 65% sản lượng thủy sản và phần lớn lương thực xuất khẩu của cả nước, góp phần quyết định đảm bảo  an ninh lương thực quốc gia.

           Tuy nhiên nguồn nước sông Mê Kông (khoảng 500 tỷ m3 nước/năm) mang nhiều phù sa, thuỷ sản có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với dân sinh, kinh tế trong vùng, nhưng phân bố rất không đều theo thời gian và không gian, 90% lượng nước tập trung vào mùa mưa (từ tháng VI đến tháng XI), gây úng lụt lớn . Những tháng mùa khô thường xảy ra thiếu nước nghiêm trọng, mặn xâm nhập sâu vào đất liền. Do bất thường của khí hậu và  những tác động tiêu cực từ thượng nguồn mà chỉ trong mấy năm gần đây, chúng ta đã phải liên tiếp đối  phó với các trận lũ lớn lịch sử và các đợt hạn hán cực kỳ gay gắt. Hệ thống thuỷ lợi ở ĐBSCL (gồm những kênh trục lớn tạo nguồn, kênh nhánh, các cống điều tiết,..) gắn liền với nguồn nước của sông Tiền và sông Hậu luôn luôn làm nhiệm vụ tổng hợp: dẫn nước ngọt cho toàn đồng bằng vào  mùa khô, còn vào mùa mưa thì tham gia kiểm soát lũ, tiêu phèn.   

A. Đầu tư hạ tầng.

Trong những năm 1996-2005 thực hiện các quyết định 99 TTg và 173 TTg, Chính phủ đã đầu tư thủy lợi 7.261 tỷ đồng (giao Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý 3.890 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 54%, và vốn địa phương quản lý là: 3371 tỷ đồng, chiếm 46%), trong đó, 5 năm đầu chủ yếu triển khai các công trình ở vùng ngập sâu và 5 năm gần đây chủ yếu cho dự án ODA Thuỷ lợi ĐBSCL (WB2 Thuỷ lợi)) do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ với tổng mức đầu tư là 2133 tỷ đồng tại TP Cần Thơ và 6 tỉnh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh.

1. Vùng tứ giác Long Xuyên:

Là vùng ngập sâu, diện tích gần 50 vạn ha (thuộc 2 tỉnh An Giang và Kiên Giang), chịu ảnh hưởng trực tiếp lũ tràn qua biên giới và dòng chính sông Hậu. Đã cơ bản hoàn thành tuyến ngăn lũ tràn biên giới bờ nam kênh Vĩnh Tế gồm các đoạn Châu Đốc-Tịnh Biên và Ba Chúc-Hà Giang. Kênh Vĩnh Tế (đáy rộng 30 m ở cao trình -3m) để dẫn lũ có lưu lượng 1500m3/s, tới cao trình +3,8m (về mùa khô có thể dẫn lưu lượng tưới 37 m3/s). Xây dựng đường tràn Xuân Tô để thoát lưu lượng 1220m3/s, các đập cao su Trà Sư, Tha La để thoát lũ có lưu lượng 700m3/s về hướng Tri Tôn-Hòn Đất. Đào kênh T5, 23 kênh thoát lũ nối kênh Rạch Giá-Hà Tiên ra biển Tây cùng với các cống cuối kênh,  mở rộng các kênh T3,T4,T6, Tám Ngàn,... Những kênh này vừa làm nhiệm vụ thoát lũ, vừa góp phần tiêu phèn, cấp nước mùa khô, tạo nên một vùng sản xuất trù phú. Khi đào kênh, đã có sự phối hợp tốt giữa giao thông và thuỷ lợi, kịp thời mở rộng các cầu giao thông để tăng khả năng thoát lũ và đảm bảo đi lại thông suốt trên Quốc lộ 80 trong mùa lũ.

 Xây dựng đê biển Tây dài 74km (kiểm soát được mực đỉnh triều tại Rạch Giá với cao trình đê 2m, chiều rộng đỉnh đê 3 m).

Đây là vùng được đầu tư tương đối hoàn chỉnh (theo quy hoạch kiểm soát lũ, đạt khoảng 80% kế hoạch, tham gia thoát lũ có hiệu quả).

2.  Vùng Đồng Tháp Mười:

Là vùng ngập sâu trong nội địa (thuộc các tỉnh Đồng Tháp, Long An và một phần Tiền Giang), diện tích 70 vạn ha, tiêu thoát lũ khó khăn. Trước đây, do thiếu nước, nhiễm phèn và ngập lụt, nên chỉ canh tác 1 vụ lúa nổi năng suất thấp.  Cùng với một số kênh trục tạo nguồn nước từ sông Tiền đã có từ trước, các kênh nối sông Tiền với sông Vàm Cỏ Tây như: Hồng Ngự, Tân Thành-Lò Gạch, Sở Hạ-Long Khốt,.. được đào và mở rộng đã góp phần tăng diện tích canh tác (khai hoang 8 vạn ha), tăng vụ (2 vụ “ăn chắc”) đạt  năng suất cao. Kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng phát triển nhanh chóng. Khi đào và nạo vét các kênh Sở Hạ-Long Khốt, Tân Thành-Lò Gạch, đất đào được đắp lên bờ phía nam tạo tuyến giao thông, dân cư và góp phần hạn chế lũ tràn qua biên giới vào trung tâm Đồng Tháp Mười. Đã nạo vét, mở rộng các  kênh 79, Sở Hạ - Cái Cỏ, Cái Bèo, Hưng Điền, 307, Ông Mười, Bà Kỳ,.. tạo tuyến giao thông, dân cư dọc bờ kênh, dẫn nước tưới trong mùa khô và thoát lũ ra dòng chính sông Tiền., Một số đê bao (Tân Hồng, Sa Rài, Tân Hưng, Mộc Hoá, Vĩnh Hưng, Cao Lãnh,..) kết hợp ngăn lũ và giao thông đã phát huy hiệu quả cao, ổn định sinh hoạt tại các đô thị, khu dân cư. 

Nhìn chung tiến độ thực hiện chậm, do thiếu vốn đầu tư, công trình thi công kéo dài, hiệu quả hạn chế.

3. Vùng bắc kênh Vĩnh An là vùng ngập sâu đầu nguồn diện tích hơn 3 vạn ha, dân số 61 vạn người (thuộc 2 huyện An Phú và Tân Châu, tỉnh An Giang), chịu ảnh hưởng trực tiếp lũ tràn qua biên giới giữa dòng chính sông Tiền và sông Hậu. Đã nạo vét và đắp bờ đoạn chính kênh “7 xã” kết hợp làm tuyến dân cư và đường giao thông an toàn vượt lũ (toàn bộ tuyến dài 85km).

4. Các dự án ngọt hoá với hệ thống đê ngăn mặn, kênh dẫn nước ngọt và cống tiêu úng, chủ động ngăn lũ úng, ngăn mặn, tiêu phèn, được triển khai tại những vùng ít chịu ảnh hưởng lũ nhưng bị ảnh hưởng mặn trong mùa khô đạt  hiệu quả cao

* Các hệ thống Gò Công (khoảng 5 vạn ha tại Tiền Giang) , Nhật Tảo - Tân Trụ (khoảng 2 vạn ha giữa 2 sông Vàm Cỏ tại Long An) đã được hoàn thành. Hệ thống Bắc Vàm Nao (hơn 3 vạn ha nằm giữa sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao và kênh Vĩnh An, chủ yếu là huyện Phú Tân  (An Giang)) đã xây dựng các đê bao và cống tưới tiêu. Hệ thống Bảo Định (khoảng 6 vạn ha tại Tiền Giang) đã làm một số cống.

* Trong hệ thống Bắc Bến Tre đã làm xong cống Ba Lai (các hạng mục khác như : đê, cống trên các sông Giao Hoà, Chẹt Sậy, Hàm Luông, Mỹ Tho,.. chưa thực hiện).

* Hệ thống Quản Lộ - Phụng Hiệp nhằm ngọt hoá cho vùng có diện tích tự nhiên 31 vạn ha bởi kênh trục tạo nguồn (kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp) và các kênh nhánh chuyển nước sông Hậu tưới từ Sóc Trăng xuống Bạc Liêu, Cà Mau,... cùng với các cống ngăn mặn xâm nhập từ phía nam quốc lộ 1A (25 kênh và cống: Nàng Rền, Mỹ Tú, Cầu Sập, Ngàn Dừa-Bạc Liêu, Phước Long-Vĩnh Mỹ, Phó Sinh, Chủ Chí, Láng Trâm, Tam Sóc, Rạch Rê v.v..). Tuy chưa thực sự hoàn thiện việc ngăn mặn từ sông Cái Lớn phía bắc nhưng hệ thống đã phát huy hiệu quả tốt  trong thập kỷ trước, góp phần giữ vững an ninh lương thực và tăng lượng gạo xuất khẩu. Mấy năm gần đây, khoảng 50% diện tích trong vùng chuyển sang nuôi tôm nước lợ, nhiều kênh dẫn nước ngọt trước đây được dùng để lấy nước mặn. Hệ thống được vận hành rất khác so với thiết kế ban đầu. Hiện đang có sự điều chỉnh một số hạng mục của dự án để phù hợp với sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và dân sinh.

* Hệ thống Tiếp Nhật và Ba Rinh-Tà Liêm (Sóc Trăng) có diện tích tự nhiên hơn 18 vạn ha, đã cơ bản hoàn thành hệ thống đê biển, cống đập ngăn mặn, giữ ngọt.

* Hệ thống Nam Măng Thít nhằm tạo nguồn tưới ổn định để phát triển toàn diện cho diện tích tự nhiên khoảng 29 vạn ha phía nam sông Măng Thít (Trà Vinh, Vĩnh Long) bằng những cống đập ngăn mặn và mạng kênh dẫn nước ngọt. Đã hoàn thành 18 cống lớn (Nhà Thờ, Vàm Buôn, Trẹm, Thâu Râu, Chà Và, Vĩnh Bình, Vĩnh Kim, Bắc Trang, Bà Trầm - Diệp Thạch,..) và cơ bản hoàn thành (đã thông nước) 3 cống lớn nhất tại ĐBSCL (Láng Thé, Cái Hóp, Cần Chông) với khẩu độ 80~100m.

* Hệ thống Ô Môn-Xà No nhằm kiểm soát lũ, tiêu thoát úng, phèn, ngăn mặn góp phần ổn định và phát triển sản xuất cả năm cho khoảng 20 vạn ha (TP Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang) tiến tới hoàn toàn chủ động về mùa vụ. Đã hoàn thành kênh KH6, cống KH8. Đang triển khai cống KH9 và các đê bao Tắc Ông Thục, Ô Môn, Xà No.

Dự án WB2 tài trợ để hoàn chỉnh một phần hệ thống Quản Lộ - Phụng Hiệp và toàn bộ các hệ thống Tiếp Nhật, Ba Rinh-Tà Liêm, Nam Mang Thít, Ô Môn-Xà No từ năm 2000 đến 2007, ngoài mục tiêu thuỷ lợi còn góp phần xây dựng nông thôn mới: cải thiện giao thông nông thôn (kiên cố hoá mặt đê bao, bờ kênh, xây hàng trăm cầu qua sông và các kênh,..), tăng cường 1,2 triệu điểm cấp nước sinh hoạt nông thôn cho toàn đồng bằng.

5. Đê biển giữ vai trò rất quan trọng để phát triển kinh tế xã hội vùng kinh tế ven biển, kết hợp thoát lũ, kiểm soát mặn, ngăn triều, giao thông. Chính phủ đã chỉ đạo triển khai đê biển Nam bộ (nâng cấp những đoạn đã có, làm những đoạn  mới để nối liền tuyến tại ven biển Đông và ven biển Tây với tổng chiều dài 1379km (trong đó đê biển 637km, đê cửa sông 742km), tổng vốn đầu tư 1450 tỷ đồng. Đến nay đã xây dựng hơn 600 km đê, 28 cầu trên đê, 82 cống ngăn mặn và hơn 1km kè biển với khối lượng đất 14 triệu m3.

6. Sạt lở bờ sông, bờ biển là những hiện tượng thường gặp do tác động dòng chảy trong sông và ven biển. Sạt lở bờ biển chủ yếu xảy ra ở một vài điểm  tại Gò Công(Tiền Giang) và cửa sông Gành Hào (Bạc Liêu, Cà Mau). Sạt lở bờ sông cũng đã xảy ra ở nhiều nơi. Đã xây dựng 19 kè bảo vệ bờ sông, bờ biển nhằm bảo vệ các thành phố, thị xã, khu kinh tế, khu đông dân cư, với tổng chiều dài 44,76km, tổng kinh phí 1006 tỷ đồng tại các thị xã Vĩnh Long, Sa Đéc (Đồng Tháp), Trà Vinh, Tân An (Long An), Long Xuyên (An Giang), các thị trấn Tân Châu (An Giang), Gành Hào (Bạc Liêu),... Các kè được xây dựng đều đạt yêu cầu kỹ thuật, bảo vệ an toàn các mục tiêu theo thiết kế, góp phần chỉnh trang đô thị, mở mang giao thông, bảo vệ môi trường.

B.  Kết quả.

Phát triển thuỷ lợi tại ĐBSCL trong 10 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đó là kết quả của việc triển khai thực hiện các quyết định QĐ 99 TTg và 173/TTg của Chính phủ và sự đồng tình ủng hộ của các địa phương trong công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, đầu tư và huy động các nguồn lực tham gia xây dựng công trình, đã tạo nên những chuyển biến sâu sắc, những thay đổi quan trọng về sản xuất và đời sống tại  ĐBSCL. Các công trình thuỷ lợi đã góp phần đáng kể :

1. Giảm nhẹ úng lụt :

- Tăng nhanh khả năng thoát lũ, đạt mức 6000m3/s ra sông Tiền, ra sông Vàm Cỏ 3000m3/s , 4700 m3/s ra biển Tây.

- Giảm đỉnh lũ chính vụ từ 20-25cm trong vùng Tứ giác Long Xuyên.

- Một số thị trấn, huyện lỵ ở Đồng Tháp Mười đã có đê bao, hàng loạt tuyến dân cư dọc bờ kênh các vùng ngập sâu đã có nền vượt lũ an toàn.

2. Cải thiện môi trường và hạ tầng nông thôn:

-  Cấp nước sinh hoạt cho khoảng 10 triệu người (66%) .

- Các hệ thống đường bộ, đường thuỷ được mở rộng và xây dựng mới kết hợp với hệ thống công trình thuỷ lợi đảm bảo giao thông thuận lợi giữa thành thị và nông thôn, các vùng.

- Nhiều đô thị được bảo vệ và chỉnh trang với những kè chống sạt lở như ở Sa Đét (Đồng Tháp), Mỹ Tho (Tiền Giang), Long Xuyên, Tân Châu (An Giang), thị xã Vĩnh Long, Cái Nhum (Vĩnh Long), Cần Thơ,..

Đã hoàn thành cơ bản chương trình Tứ giác Long Xuyên, Quảng Lộ Phụng Hiệp, Nam Măng Thít,...

- Môi trường sinh thái được cải thiện rõ rệt, nhất là những vùng được ngọt hoá.

3.  Góp phần tăng trưởng nông nghiệp :

Tăng khả năng tạo nguồn ngọt và phù sa vào sâu nội đồng, mở rộng diện tích khai hoang, tăng vụ cho 50 vạn ha.

Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bỡnh quõn tăng gần 7%/năm trong 5 năm (2001-2005). Giỏ trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác bỡnh quõn tăng 12,2%/năm (từ 20,2 triệu đồng/ha năm 2000 lên gần 28 triệu đồng/ha năm 2005), trong đó những tỉnh đạt giá trị cao là: An Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang đạt 37 triệu đ/ha.

Diện tớch lỳa giảm (khoảng 290.000 ha trong 5 năm gần đây do chuyển sang các loại cây trồng khác và nuôi thuỷ sản), nhưng năng suất lúa đạt bỡnh quõn 48,4 tạ/ha, tăng 5,6 tạ/ha, chất lượng tăng, bảo đảm vững ch¾c an ninh lương thực của cả nước (sản lượng năm 2005 đạt trên 19 triệu tấn, vượt mức chỉ tiêu 3 triệu tấn), tăng khối lượng và giá trị xuất khẩu.

 

            3- Miền Trung (bao gồm các tỉnh khu 4 cũ và Duyên hải miền Trung)

            Là vùng thường xuyên có thiên tai (hạn hán, gió nóng, bão lũ..), sản xuất nông nghiệp thiếu ổn định đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn nên liên tục trong nhiều năm Đảng và Nhà nước tập trung đầu tư cho công tác thủy lợi với tỷ trọng cao, có nhiều công trình qui mô lớn, công trình trọng điểm Nhà nước như hệ thống Bái Thượng, hồ: Sông Mực, Yên Mỹ, hệ thống tiêu úng Quảng Châu, sông Lý, Hà Trung (Thanh Hóa), hệ thống Bắc và Nam Nghệ An, Diễn Thành, Vực Mấu,... (Nghệ An), Kè Gỗ, Linh Cảm (Hà Tĩnh), Vực Tròn, Mỹ Trung (Quảng Bình), Trúc Kinh, Bảo Đài, Nam Thạch Hãn, (Quảng Trị) Hòa Mỹ (Thừa Thiên Huế), Khe Tân, Đồng Nghệ, An Trạch, (Quảng Nam), Thạch Nham (Quảng Ngãi), Thuận Ninh, Mỹ Bình (Bình Định), Đồng Cam, Phú Xuân (Phú Yên), Đá Bàn (Khánh Hòa),... Đến nay các công trình thủy lợi đã đảm bảo tưới cho lúa hơn 1,07 triệu ha trong đó ở khu 4 cũ: 60,8 vạn, Duyên hải miền Trung 46 vạn và hơn 11,3 vạn ha rau màu cây công nghiệp,...

- Về nông nghiệp: Tập trung đầu tư phát triển cây công nghiệp lạc, mía, cà phê, điều, ca cao, hồ tiêu, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, phát triển lâm nghiệp sản xuất lương thực (lúa, ngô, sắn,...) trên những địa bàn thuận lợi, nuôi trồng thủy sản địa bàn ven biển,...

            Hướng đầu tư thuỷ lợi cho miền Trung chủ yếu là xây dựng công trình ở đầu nguồn các dòng sông lớn để tiếp nguồn và chống lũ cho hạ du. Vùng đồng bằng ven biển xây dựng các cống ngăn mặn, giữ ngọt,... Riêng các tỉnh cực nam Trung bộ phải đẩy nhanh công tác chuẩn bị kỹ thuật để xây dựng các công trình ở các địa bàn khô hạn, vùng đồng bào Chăm, thúc đẩy tiến độ xây dựng các công trình tiếp nguồn từ sông Đồng Nai. Hoàn thành các công trình  dở dang, phục hồi, nâng cấp các công trình đã có, tiếp tục chuẩn bị kỹ thuật cho những công trình mới.

            Về phòng chống lũ lụt: Đây là vùng thường bị lụt bão, cần có phương án chính sách thích nghi giảm nhẹ thiên tai, hệ thống đê sông đê biển thường rất khó giữ, chỉ bảo vệ các vùng nhỏ cục bộ vì vậy chỉ có thể đầu tư mức độ,... Nghiên cứu các giải pháp phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai, chung sống với lũ lụt: Nhà ở nơi cao ráo, chắc chắn chống được bão, lụt kết hợp với trồng rừng tăng độ che phủ, thoát lũ cửa sông xây hồ chứa nước lớn ở thượng nguồn tăng cường dự báo cảnh báo.

            - Về đầu tư thuỷ lợi như sau:

a. Phục hồi, nâng cấp các công trình thuỷ lợi lớn, đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống bằng nguồn vốn vay ODA :

- Dự án WB1 vay vốn Ngân hàng thế giới 110 triệu USD đã hoàn thành phục hồi, nâng cấp 7 tiểu dự án thuỷ lợi miền trung và thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn thành nâng diện tích được tưới từ 68 nghìn lên 133 nghìn ha và 338 nghìn hộ gia đình được hưởng lợi bao gồm HTTL Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá), Nam Nghệ An (Nghệ An), Linh Cảm (Hà Tĩnh), An Trạch (Quảng Nam - Đà Nẵng), Thạch Nham (Quảng Ngãi), Đồng Cam (Phú Yên), Hóc Môn Bắc Bình Chánh (thành phố Hồ Chí Minh). Do vốn kết dư sau đấu thầu, dự án được mở rộng để khắc phục lũ lụt cho một số HTTL như: Nam Truồi, Hoà Mỹ (Thừa Thiên - Huế), trạm bơm Kiểu (Thanh Hoá), hồ Kinh Môn - Đá Mài (Quảng Trị), hồ Vực Tròn (Quảng Bình), hồ Liệt Sơn (Quảng Ngãi), hồ Phú Ninh, đập Duy Thành, bảo vệ bờ sông Thu Bồn (Quảng Nam).

- Dự án ADB1 vay vốn Ngân hàng phát triển Châu Á 76,6 triệu USD đã hoàn thành bao gồm dự án Nâng cấp HTTL Sông Chu - Bái Thượng (Thanh Hoá) tưới 50000 ha, HTTL Đô Lương - Bắc Nghệ An (Nghệ An) tưới 30000 ha.

- Dự án WB3 đang đầu tư xây dựng, nâng cấp một số HTTL: hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), hồ Phú Ninh (Quảng Nam), hồ Đá Bàn (Khánh Hoà)...

- Về đê biển: Nâng cấp hệ thống đê biển 7 tỉnh miền trung từ Thanh Hoá đến Quảng Nam bằng dự án PAM 4617 với số lương thực viện trợ tương đương 13 triệu USD, thực hiện từ năm 1993 đến năm 1997, đắp mới củng cố và nâng cấp trên 400 km đê biển.

b. Vốn ngân sách tập trung hàng năm đầu tư hoàn thành một số hồ chứa nước loại vừa ở đầu nguồn các lưu vực sông lớn để cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh, kinh tế như hồ Tây Trác (Thanh Hoá), Kẻ Cọc - Khe Nhã (Nghệ An), sông Rác, sông Tiêm (Hà Tĩnh), Phú Vinh - An Mã (Quảng Bình), Ái Tử (Quảng Trị), Truồi (Thừa Thiên - Huế), Việt An (Quảng Nam), Núi Ngang (Quảng Ngãi), Đồng Tròn (Phú Yên), Cam Ranh (Khánh Hoà), Tân Giang (Ninh Thuận), Cà Giây, sông Quao (Bình Thuận)

Vùng đồng bằng ven biển đã hoàn thành xây dựng các cống đập ngăn mặn, giữ ngọt, phát triển kinh tế vùng biển như cống Lộc Động (Thanh Hoá), cống Nghi Quang (Nghệ An), cống Đò Điểm (Hà Tĩnh), cống Mỹ Trung (Quảng Bình), cống Việt Yên (Quảng Trị), Thảo Long (Thừa Thiên - Huế), Duy Thành (Quảng Nam).

c. Vốn Trái phiếu Chính phủ

Tiếp tục khởi công mới một số hồ chứa nước lớn đa mục tiêu như hồ Cửa Đạt (Thanh Hoá) tạo nguồn tưới 87.000 ha, Sông Sào (Nghệ An) tưới 2300 ha, Rào Đá (Quảng Bình) 6000 ha, Tả Trạch (Thừa Thiên - Huế) tạo nguồn 26000 ha, Nước Trong (Quảng Ngãi) tạo nguồn 20000 ha, Định Bình (Bình Định) tạo nguồn 15000 ha, CTTL sau thủy điện Sông Hinh (Phú Yên), Suối Dầu (Khánh Hoà) 3700 ha, sông Sắt (Ninh Thuận), Lòng Sông (Bình Thuận)... Các công trình này sẽ hoàn thành cơ bản vào năm 2010.

Cùng với đầu tư của Nhà nước, các địa phương đã huy động cao sức dân và ngân sách địa phương để duy trì năng lực công trình đã có, làm đồng bộ kênh mương cấp dưới và công trình nội đồng, xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi nhỏ miền núi, giải quyết nước sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào tại chỗ, thực hiện mục tiêu ổn định dân cư, xoá đói giảm nghèo cho từng bản làng.

            4- Miền núi phía Bắc

            Là vùng có ý nghĩa chiến lược về kinh tế quốc phòng và an ninh đầu nguồn các hệ thống sông lớn ở ĐBSH và Bắc khu 4 cũ có ý nghĩa về môi trường  sinh thái song là vùng khó khăn nhất. Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế xã hội miền núi của Đảng, Ngành Nông nghiệp và PTNT đã đầu tư xây dựng được nhiều công trình thủy lợi vừa và nhỏ, trong đó có một số hệ thống công trình thủy lợi lớn như hồ Núi Cốc, Bảo Linh, Gò Miếu (Thái Nguyên), Trúc Bài Sơn (Quảng Ninh), tưới 2.200 ha, Hồng Đại (Cao Bằng), tưới 2.200 ha, các công trình thuỷ lợi đã đảm bảo tưới cho lúa Đông xuân được hơn 15 vạn ha, lúa Mùa 24 vạn ha, màu cây công nghiệp: 2,7 vạn ha,...

            - Về nông nghiệp: Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm có lợi thế là chè, cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới (cam, quýt, nhãn, dứa, chuối, vải, mận, đào, hồng, dứa,...) cà phê arabica, lâm nghiệp, chăn nuôi,...

- Phát triển lương thực lúa, ngô, sắn, các loại đỗ,... ở những vùng có điều kiện.

            - Về thủy lợi: Phát triển thủy lợi phải đặt trong một chương trình phát triển nông - lâm nghiệp sinh thái, tạo điều kiện cho ổn định và phát triển sản xuất nông nghiệp, chương trình ĐCĐC, xóa đói giảm nghèo và cải tạo môi trường sinh thái,... tạo điều kiện cho các cộng đồng dân tộc ổn định cuộc sống trên mảnh đất của mình tiến tới làm giàu và phát triển trù phú. Biện pháp thủy lợi phải kết hợp với chống xói mòn, hình thành ruộng bậc thang, giữ đất, giữ rừng, đảm bảo sản xuất nông nghiệp nước sinh hoạt, thủy điện nhỏ,... bằng các công trình thủy lợi nhỏ là chủ yếu.

            + Nâng cấp, tu bổ, kiên cố hóa các công trình đã có để phát huy cao năng lực của các công trình: Hệ thống Nậm Rốm (Điện Biên) tưới 2900ha, hồ Yên Lập  10000ha hồ Trúc Bài Sơn (Quảng Ninh) 2600ha, hồ Núi Cốc (Thái Nguyên) 3600ha, HTTK Phong Châu (Phú Thọ) 3600ha,  HTTL Than Uyên (Lào Cai) 500ha

            + Xây dựng mới một số công trình lớn ở địa bàn tập trung, tạo tình thế mới cho toàn vùng: hồ Tràng Vinh (Quảng Ninh) 5800ha, HTTL Phú Cường 490ha, hồ Đầm Bài (Hoà Bình) 530ha, Nậm Be (Lào Cai) 410ha, Cao Lộc (Lạng Sơn) 730ha, Từ Hiếu (Yên Bái) 300ha, Trung Mỹ (Tuyên Quang) 3000ha, Thạch An (Cao bằng) 480ha, Suối Nứa 1070ha, Khe Chão (Bắc Giang) 590ha, HTTL Hạ Hoà (Phú Thọ) 2000ha,...

            + Khởi công xây dựng mới một số công trình thủy lợi lớn ở những cánh đồng tập trung, có điều kiện nguồn nước như: Đầm Hà Động (Quảng Ninh), Nậm Ngam - Pú Nhi (Điện Biên) 1900ha, Bản Mòng (Sơn La) 13000ha, Hồ Trọng (Hoà Bình) 650ha, Suối Mỡ (Bắc Giang) 700ha, Chống lũ thị xã Bắc Cạn (3500ha),... bằng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2003-2010

            + Đẩy mạnh công tác phát triển rừng kết hợp làm hồ chứa nước nhỏ, ruộng bậc thang, nhằm giảm lũ và tăng cường nguồn sinh thủy.

            + Đặc biệt ưu tiên đầu tư thủy lợi, thủy luân nhỏ miền núi góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo và chiến lược giải quyết nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn.

            + Có chính sách phát triển thủy lợi nhỏ tưới cho cây công nghiệp và cây ăn quả để vừa có thể tận dụng đất dốc ở vùng trung du, miền núi vừa phát huy được hiệu quả của các loại cây trồng có giá trị cao. Lựa chọn cây con và thực hiện chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc để bảo vệ đất và sử dụng có hiệu quả vùng đất nhiều tiềm năng này.

            5- Tây Nguyên

            Là vùng kinh tế chiến lược có tiềm năng phát triển nông nghiệp đa dạng, có 4 hệ thống sông phân bổ trên địa bàn, sông Se San, Serepok, Sông Ba, Sông Đồng Nai có tiềm năng nước mặt và cân bằng tại chỗ, phục vụ đa mục tiêu. Thủy lợi phục vụ cho nâng cao năng suất cây trồng nhất là tập đoàn cây công nghiệp tập trung cà phê, công tác thủy lợi đã góp phần quan trọng trong việc hình thành các khu kinh tế phát triển và nhất là góp phần ổn định đời sống đồng bào các dân tộc và phân bổ lại lao động dân cư. Đến nay Tây Nguyên đã có trên 400 hồ chứa nước loại vừa và lớn, tưới cho trên 9,8 vạn ha lúa và trên 3,1 vạn ha cây công nghiệp chủ yếu là tưới cho cây cà phê.

            - Về nông nghiệp: phát triển cà phê, cao su, điều, rau hoa, chè,... trồng và bảo vệ rừng, phát triển cây lương thực lúa, ngô,... cây công nghiệp mía, đậu đỗ, bông,...

            - Mục tiêu phát triển thủy lợi ở Tây Nguyên là khai thác triệt để nguồn nước các hệ thống sông:

            - Hệ thống sông Serepok: Thủy điện Dray Hling đã được xây dựng, có công suất lắp máy 12 MW, một số hồ chứa đã được xây dựng giải quyết nước tưới cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt như hồ Eakao, Krong Buk hạ, Easoup, Buôn Triết,... Tiếp tục xây dựng mới hồ Easoup thượng mở rộng hồ Krong Buk hạ giải quyết nước phục vụ sản xuất dân sinh.

            - Hệ thống Sông Ba: Hồ Ayun hạ đã được xây dựng có năng lực tưới thiết kế là 13.500 ha và nước sinh hoạt. Thủy điện Vĩnh Sơn đã được xây dựng có công suất 66 MW. Thủy điện sông Hinh có công suất lắp máy 70 MW và cung cấp nước cho hệ thống thủy nông Đồng Cam. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, tận dụng nguồn nước sau thuỷ điện để giải quyết tưới và sinh hoạt.

            - Hệ thống sông Se San: Hồ Dak uy tưới 1.700 ha, Biển Hồ tưới 1.000 ha đã được xây dựng, thủy điện Yaly có công suất 720 MW tưới cho 800 ha, Se San 3: 273 KW, Se San 3A: 100 MW, Se San 4: 330 MW, Plêikrông 120 MW và nghiên cứu xây dựng một số công trình dọc sông Xê San để sử dụng nguồn nước sau thuỷ điện.

            - Hoàn thành dứt điểm các công trình lớn đang thi công kết hợp xây dựng kênh mương nội đồng và khai thác đồng ruộng như hồ chứa Ayun hạ tưới 13500ha, HTTL Hà Ra tưới 360ha, Ia Lâu đợt 1 1200ha (Gia Lai), Đăk Lô tưới 960ha, Ka La (Lâm Đồng) 2030ha, EaSup giai đoạn 1: 3000ha, Buôn Joong 3140ha, SCNC hồ EA Kao 2250ha (Đắc Lắc), Đắc Lót tưới 700ha, Ia Bang thượng 360ha, Đắc Yên 14000ha (Kon Tum). Đồng thời xây dựng mới các công trình lớn vốn TPCP cho những năm sau 2005 như Ea sup thượng 8000ha, Krông Buk hạ (Đăk lăc) 11400ha, Đăk Lông thượng (Lâm đồng) 3600ha,  Ia Mơ  12500 ha, Ia Ring 2300ha, Ia MLá 5150 ha (Gia Lai), Đăk RơnGa (Kon tum) 1057 ha tạo tình thế cho bước phát triển đột phá về nông nghiệp ở vùng giàu tiềm năng này.

            - Tăng cường công tác quản lý, khai thác phát huy cao độ năng lực công trình đã có bằng cách đầu tư nâng cấp công trình đầu mối, kiên cố hóa kênh mương, đồng thời tiến hành xây dựng các công trình vừa và nhỏ, tăng cường nghiên cứu điều tra sử dụng hợp lý nguồn nước ngầm để đảm bảo tưới rau màu, cây công nghiệp, ổn định sản xuất và giải quyết nước sinh hoạt cho trên 30 vạn dân đảm bảo định canh, định cư và mở vùng kinh tế mới.

            - Đưa công nghệ tưới hiện đại vào các vùng sản xuất cây công nghiệp dài ngày (cà phê, chè, tiêu, cao su,...) nhằm tiết kiệm nước và tăng năng suất cây trồng.

            - Tiến hành nghiên cứu bổ sung hoàn chỉnh qui hoạch sử dụng tổng hợp hiệu quả nguồn nước sông Sê San, Sêrêpốk đặc biệt chú ý tới phương án xây dựng các hồ chứa lớn và vừa để điều tiết nguồn nước đồng thời có biện pháp thăm dò đánh giá trữ lượng nước ngầm và quản lý việc khai thác chặt chẽ, tránh gây cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước.

            - Nghiên cứu, điều chỉnh nhiệm vụ của các công trình trên các sông Sê San, Đồng Nai để chuyển nước góp phần phòng chống sa mạc hóa cho các vùng ven biển cực Nam trung bộ.

            6- Miền Đông Nam bộ

            Là vùng kinh tế phát triển và có tiềm năng lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nguồn nước khá dồi dào, hệ thống sông Đồng Nai, Sông La Ngà, sông Bé đã hình thành sơ đồ khai thác tiềm nămg thuỷ lợi,  thủy điện lớn như:

- Sông Đồng Nai: đã xây dựng thủy điện Đa Nhim có công suất 160 MW, thủy điện Trị An 400 MW và đang chuẩn bị xây dựng thủy điện Đại Ninh: 300 MW, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4,...

            - Trên sông La Ngà: thủy điện Hàm Thuận Đa My đã được xây dựng có công suất 500 MW, đang nghiên cứu xây dựng HTTL Tà Pao sử dụng nước sau thuỷ điện Hàm Thuận - Đa My tưới 20.000ha.

            - Sông Bé thuỷ điện Thác Mơ đã được xây dựng 150 MW chuẩn bị xây dựng Cân Đơn 70 MW và hệ thống thủy lợi Phước Hòa.

            Các công trình thủy lợi vừa và nhỏ đã có bước phát triển khá, giải quyết tốt nguồn nước sinh hoạt, tưới cho lúa và cây công nghiệp. Đến nay diện tích tưới cho lúa đã đạt hơn 24 vạn ha, tưới cho rau màu cây công nghiệp hơn 6,9 vạn ha.

- Về nông nghiệp: phát triển điều, cao su, cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả nhiệt đới, lạc, rau, hoa, cây cảnh, mía (đủ nguyên liệu cho nhà máy đường hiện có) trồng rừng, phát triển chăn nuôi (lơn, bò sữa, gia cầm,...).

            Tận dụng và khai thác nguồn nước sau thủy điện để phân phối hợp lý trên các địa bàn trong khu vực, phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh ở các thành phố lớn.

            - Tiếp tục đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá công trình Dầu Tiếng để nâng cao hiệu quả công trình, hoàn thành công trình hồ Đá Đen (Bà Rịa - Vũng Tàu), hồ Suối Cả (Cầu Mới) (Đồng Nai) tưới 1800ha, hệ thống Hóc Môn - Bắc Bình Chánh (TP HCM) tưới 19800 ha, HTTL An Sơn - Lái Thiêu (Bình Dương), Khởi công mới hồ Sông Ray (Bà Rịa - Vũng Tàu) bằng nguồn vốn TPCP. Xúc tiến khởi công các công trình lớn như hồ tận dụng nguồn nước sau thủy điện cung cấp nước sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt, công nghiệp cùng tam giác công nghiệp TP. Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Đồng Nai, cung cấp nước cho vùng Ninh Thuận - Bình Thuận.

            - Tập trung hoàn thành quy hoạch tổng thể sông Đồng Nai - Sài Gòn và chuẩn bị đầu tư cho bước phát triển nông nghiệp, thủy điện, cấp nước công nghiệp, vận tải thủy và các yêu cầu khác cho thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Vũng Tàu, tiếp nước sông Đồng Nai cho vùng khô hạn Bình Thuận, Ninh Thuận và tiếp nguồn nước cải tạo đất vùng phía Vàm Cỏ Đông , Đức Hoà - Đức Huệ (Long An).

            Một số thành tựu trong KHKT thuỷ lợi:

Trong 10 thập niên qua công tác KHKT thuỷ lợi đã có những chuyển biến về chất, thực hiện mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn trước hết là hiện đại hoá công tác thuỷ lợi.

Đã tiến hànhphê duyệt quy hoạch sử dụng tổng hợp nguồn nước các lưu vực sông lớn: sông Cửu Long, sông Hồng, sông Đồng Nai, sông Ba, sông Trà Khúc, sông Mã,... làm cơ sở cho bước đi đầu tư xây dựng. Thành lập Ban quản lý quy hoạch lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai,...

Giải quyết được những vấn đề phức tạp về mô hình toán, thuỷ lực, thuỷ văn để xác định bước đi đầu tư và khai thác có hiệu quả tài nguyên nước, như chương trình kiểm soát lũ và cải tạo đất chua phèn ở ĐBSCL nhằm góp phần tạo ra sự phát triển vượt bậc trong sản xuất nông nghiệp, đã giải quyết đúng những vấn đề trong quản lý điều tiết lũ của hồ chứa nước Hoà Bình phục vụ chống lũ ĐBSH, chỉnh trị sông, chống xói lở, cũng như xác định diễn biến của xâm nhập mặn.

- Nghiên cứu sử dụng các loại vật liệu mới và công nghệ thi công tiên tiến để xử lý các nền móng phức tạp như: làm tường chống thấm bằng biện tháp đào hào trong dung dịch Bentonit để chống thấm dưới nền thân đập ở công trình Dầu Tiếng (Tây Ninh), Dương Đông (đảo Phú Quốc), An Chúa (Khánh Hoà), EaKao (Đắc Lắc), ... đập đất có sử dụng lõi bê tông chống thấm như hồ Tràng Vinh (Quảng Ninh), cứng hoá kênh mương và mặt đê kết hợp làm đường giao thông nông thôn, sử dụng cửa cống tự động đóng mở hai chiều.

- Chế tạo và ứng dụng nhiệu loại phụ gia bê tông và vữa cũng như tro bay trong bê tông đầm lăn cùng các biện pháp thi công để nâng cao chất lượng bê tông và cải thiện điều kiện thi công như đã làm ở đập Tân Giang (Ninh Thuận) cao 37m, Định Bình (Bình Định) cao 50m, Lòng Sông (Bình Thuận) cao 44m,...

- Ứng dụng rộng rãi các loại vật liệu tổng hợp địa kỹ thuật để giải quyết các yêu cầu lọc, tiêu nước, gia cố mái, nền, chống xói mòn cho công trình và lót đất ao hồ để trữ nước. Đã giải quyết chống ăn mòn bảo vệ kim loại trong các môi trường chua, mặn bằng bọc Composit hoặc phun phủ kim loại.

- Sửa dụng cả đất kém bền vững như đất tan rã, trương nở, lún, sụt hoặc đất bazan hạt thô lẫn dăm sỏi để đắp đập ở Nam Trung bộ, Tây nguyên,...

- Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ngành thuỷ lợi ngày càng tăng trưởng về số lượng và chất lượng, đến nay đã đào tạo được hơn 12000 kỹ sư thuỷ lợi, hơn 200 là tiến sĩ và thạc sĩ, gần 30.000 cán bộ trung cấp kỹ thuật trên 200.000 công nhân kỹ thuật (khảo sát, xây dựng, quản lý thuỷ nông), nhìn chung đội ngũ cán bộ, công nhân phần lớn trẻ, có tinh thần sáng tạo trong công tác và học tập, có khả năng nắm bắt và ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam.

 

                                               KS. Trần Tiếp Đệ

                                        Phó Vụ trưởng Kế hoạch

                                        Bộ Nông nghiêp & PTNT

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o