|
Có nên tăng giá điện?
Vũ Quang Việt (Mỹ) |
Giá cả điện, một sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế vẫn thuộc độc quyền nhà nước. Hiện nay, Bộ Công thương qui định giá quá rẻ nên nên chủ yếu chỉ có nhà nước là người sản xuất và đầu tư chính. Do giá rẻ, Việt Nam trong nhiều năm nay đã là nơi hấp dẫn công nghệ gây ô nhiễm từ Trung Quốc (TQ) như sản xuất thép, aluminum, v.v. Cũng vì giá rẻ, sử dụng điện quá lớn, do đó yêu cầu đầu tư về điện, để đáp ứng nhu cầu ngày càng vượt khả năng của nền kinh tế và ngân sácch. Và cuối cùng, cũng vì giá rẻ, nên chỉ có thể tăng sản xuất điện bằng nhà máy dùng than, gây thêm ô nhiễm.
Giá điện ở Việt Nam (VN) rõ ràng là giá quá rẻ, thuộc loại rẻ nhất thế giới. Giá bán điện lẻ bình quân ở VN năm 2015 là 1622 đồng một kwh, tức là 7.5 xu US. Ở TQ là 8 xu, Ở Mỹ là 13 xu/kwh (coi bảng 1a). Ở nhiều nước châu Âu điện bán trên 20 xu, có nơi gần 40 xu.
Bảng 1a. Giá một kwh giờ điện ở một số quốc gia, 2015
Quốc gia |
Giá kwh |
Quốc gia |
Giá kwh |
Vietnam |
7.5 xu |
Philippines |
19-25 xu |
Trung Quốc |
8 xu |
Mỹ |
13 xu |
Indonesia |
11 xu |
Singapore |
25 xu |
Malaysia |
5-13 xu |
Nhật |
20-24 xu |
Thailand |
6-13 xu |
|
|
Chú thích: Nếu chỉ một giá, đó là giá trung bình, còn không là khoảng giá tùy mục đích sử dụng. Nguồn: Wiki, Statistica, Eurostat
Theo nhiều nghiên cứu ở Mỹ, cứ tăng giá 1% thì người sử dụng trong gia đình sẽ giảm sử dụng điện từ -0.382% đển -0.613%, sử dụng trong thương mại và văn phòng giảm ‑0.747% và trong công nghiệp giảm từ -0.522% đến -0.866%. Tức là độ co giản của cầu đối với thay đổi giá là khá lớn. Một nghiên cứu về một số nước châu Á cho thấy, ởPhilipin, độ co giãn cao hơn từ -012% đến - 0.35%; ở Thái Lan, độ co giản là từ -0.16% to -1.53%; ở Ấn Độ, độ co giãn thấp hơn nhiều, chỉ vào khoảng -0.06% đến -0.15% vì người dân không có lựa chọn nào khác để di chuyển. Tuy chưa có công trình nào nghiên cứu về độ co giãn của cầu ở Việt Nam vì thiếu thông tin về sử dụng điện nhưng việc tăng giá dựa vào các nghiên cứu ở trên cho thấy tăng giá đương nhiên sẽ đưa đển giảm sử dụng điện.
Giá rẻ khuyến khích tiêu dùng trong mọi khu vực, từ sản xuất đến tiêu dùng, phí phạm điện. Người dân và đặc biệt khu hành chính phi sản xuất chắc chắn đã sử dụng điện trong sinh hoạt hàng ngày vì giá rẻ. Nhưng trong sản xuất, ngoài việc dùng phí phạm, công nghệ dùng nhiều điện như khai thác bô xít, sản xuất xi măng, sắt thép được khuyến khích, và lại có khuynh hướng sử dụng công nghệ rác ngốn điện chủ yếu là tiếp nhận máy móc thứ cấp từ Trung Quốc.
Sử dụng điện trên đầu người so với 1 USD GDP làm ra ở Việt Nam cao hơn hẳn các nước trong khu vực (số liệu năm 2014 ở dưới cho thấy điều này). Cứ 1 USD GDP thì VN cần 0.714 kwh, cao hơn 66% so với Thái Lan,70% so với Malaysia và gần gấp 3 so với Philippines. Ngay cả tính GDP theo sức mua so sánh (GDP-PPP), tức là VN giầu hơn vì giá tương đối rẻ hơn, sử dụng điện trên 1 USD-PPP vẫn cao hơn các nước trên (coi bảng 1b).
Bảng 1b. Sử dụng điện và GDP bình quân đầu người 2014
|
Sử dụng điện đầu người (Kwh) |
GDP đầu người |
GDP-PPP đầu người (tính theo sức mua so sánh) |
Tỷ lệ sử dụng điện trên 1USD |
|
GDP |
GDP-PPP |
Trung Quốc |
3927 |
7693 |
13709 |
0.510 |
0.286 |
Indonesia |
814 |
3500 |
11563 |
0.233 |
0.070 |
Malaysia |
4646 |
11306 |
31193 |
0.411 |
0.149 |
Philippines |
706 |
2873 |
7308 |
0.246 |
0.097 |
Thái Lan |
2566 |
5970 |
16776 |
0.430 |
0.153 |
Việt Nam |
1439 |
2015 |
5879 |
0.714 |
0.245 |
Nguồn: Sử dụng điện từ World Bank, GDP đầu người từ Liên Hiệp Quốc (LHQ). GDP-PPP tính cho năm 2014 là dựa vào tỷ lệ GDP-PPP/GDP năm 2015. Số liệu GDP-PPP của World Bank. Số liệu GDP của LHQ.
Không chỉ sử dụng điện cao hơn nhiều nước khác so với GDP đầu người, sử dụng điện ở VN lại tăng mạnh. Từ 2010 đến 2015, sử dụng điện tăng ở mức bình quân năm 12% so với tốc độ tăng GDP bình quân năm là 6.0% và tốc độ tăng GDP đầu người là 4.8%. Và nhu cầu điện tăng vượt xa cả tăng tốc bình quân năm chưa đến 4% của khu vực công nghiệp, xây dựng và khai khoáng (coi bảng 2).
Bảng 2. Nhu cầu điện trên thị trường Việt Nam
|
2010 |
2011 |
2012 |
2013 |
2014 |
2015 |
Tổng lượng điện bán (Mil. Kwh) |
85689 |
94657 |
105474 |
115263 |
128628 |
143682 |
Bán cho sản xuất |
53718 |
60445 |
67053 |
73780 |
83160 |
93305 |
Bán cho phi sản xuất |
31971 |
34212 |
38421 |
41483 |
45468 |
50377 |
Tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện trong |
|
|
|
Sản xuất |
|
13% |
11% |
10% |
13% |
12% |
Phi sản xuất |
|
7% |
12% |
8% |
10% |
11% |
Nguồn:Báo cáo của EVN (2016 Vietnam Electricity Annual Report).
Dự báo năng lượng từ nay cho đến năm 2035 cho các nước ASEAN của Tổ chức năng lượng Thế giới (EIA) ướcđiện tăng ở mức bình quân năm là 4.2% trong khi GDP bình quân đầu người khu vực tăng bìnhh quân năm 3.7%. Có thể hiểu được là điện tăng nhanh hơn ở các nước còn nghèo vì thành thị hóa, người thành phố dùng nhiều điện hơn nông thôn. Khi giầu hơn, tình hình khác hẳn, ở Australia, theo một nghiên cứu, 1% tăng GDP chỉ tăng nhu cầu điện tăng 0.51%, một nghiên cứu khác tính là điện chỉ tăng i0.32% - 0.41%.
Tuy thế thời gian qua và nếu không có gì thay đổi thì sắp tới điện ở VN vẫn tăng ở mức 2 con số, vượt xa mức tăng ở các nước ASEAN và vượt xa tốc độ tăng GDP. Nghiên cứu của World Bank về điện cho Việt Nam cũng đánh giá là giá rẻ, và sử dụng tăng quá cao.
Nếu tiếp tục tăng sử dụng điện như thế ngân sách sẽ phải đầu tư vào điện rất lớn bởi vì tư nhân và nước ngoài không ai dại gì nhảy vào ngành không đem lại lợi nhuận do giá quá thấp. Cũng do giá quá thấp, các công nghệ sạch sản xuất điện tái tạo như điện gió, điện mặt trời cũng không thể phát triển. Nhà nước để giảm chi phí đã đâm đầu vào điện than để phục vụ công nghệ rác nhập từ TQ.
Giá điện rẻ sẽ không thể tiếp tục mãi nhất là nguồn cung thủy điện đã coi như bão hòa. VN hiện nay có nguồn cung từ thủy điện 38%, than 33.5%, khí 20.7%, dầu xăng và diesel 7.4%, chỉ có 0.4% là điện tái tạo.
VN cần tăng giá điện, để khuyến khích đầu tư của tư nhân và nước ngoài vào ngành điện.
Nếu thực hiện đúng đắn việc tăng giá qua áp dụng giá cạnh tranh thị trường có thể tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Tiền do Tổng công ty Điện lực VN, sau khi bổ xung vào định mức chi phí và khấu hao qui định (do đó là doanh nghiệp dộc quyền nhà nước) sẽ thu về ngân sách và chỉ được phép sử dụng để đầu tưu vào ngành điện (nếu cần) đặc biệt là vào công nghệ điện không khói như điện mặt trời, điện gió.
Chính sách là tiến tới thị trường cung cấp điện cạnh tranh giá, nhưng EVN vẫn đóng vai trò độc quyền trong chuyển tải điện.
|