» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81280157

 
Tư liệu
Gửi bài viết này cho bạn bè

Những bài học về PIM và IMT rút ra từ Nepal. (30/3/07)
-

Những bài học về PIM và IMT rút ra từ Nepal

(PIM- Participatory Irrigation Management)

(IMT- Irrigation Management Transfer)

 

Nguyễn Xuân Tiệp

   

   

Chúng tôi được tham dự hội thảo quốc tế  do FMIST tổ chức tại Nepal với chủ đề “Nông dân tham gia quản lý thuỷ nông” Bản báo cáo của Việt Nam được trình bày tại hội thảo này với tiêu đề “ Một số kinh nghiệm  về vai trò của cộng đồng  trong quản lý khai thác hệ thống tưới ở tỉnh Tuyên Quang của Việt Nam” được nhiều nước và nhiều nhà nghiên cứu  chú ý và quan tâm.

 

Trong quá trình hội thảo chúng tôi đã trực tiếp làm việc, trao đổi với nông dân trong hội sử dụng nước  thuộc các hệ thống Kalleritar, Panchkanya,  Khageri, Pithuwa của Neepal…. và trao đổi kinh nghiệm với chuyên gia các nước Lào và Campuchia, Thái Lan, Nepal... dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia cuả DSE đã rút ra được một số bài học cho Việt nam

 

 

 Có thể nói Nepal là một nước nghèo, đất dai chủ yếu là đất đồi, không bằng phẳng, ruộng bậc thang giống một số vùng núi ở Việt nam.

 

 Điều kiện thuỷ văn khí tượng: nắng nóng, khô hạn, thiếu nước. Mùa khô chỉ sản xuất các loại cây màu , mùa mưa sản xuất lúa, do không đủ nước tưới nênnăng suất không cao

 

 Nhà nước Nepal đã đầu tư xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi để trữ nước hỗ trợ cấp nước chủ động  tưới cho lúa (chủ yếu vào mùa mưa) cây màu vào mùa khô.

 

 Những vùng có công trình thuỷ lợi năng suất cây trồng tăng lên, diện tích tưới mở rộng và tăng vụ, năng suất đạt 5-6tấn/ vụ . Hệ số sử dụng ruộng đất một số  nơi đã tăng lên trên  2.

 

Nhiều thập kỷ qua, công trình do Nhà nước quản lý đều phát huy hiệu quả thấp và thực tế Nhà nước  không thể quản lý nổi. Nhiều công trình Nhà nước xây dựng xong phục vụ kếm hiệu quả, nông dân xin phép chính phủ đảm nhận quản lý các công trình do Nhà nước đầu tư hiệu quả hơn. Vì vậy, đến năm 1980 Nhà nước chỉ quản lý  những công trình thuỷ lợi có quy mô lớn, đặc biệt là từ khi có các dự án do ADB tài trợ thì thực hiện việc chuyển giao công trình thuỷ lợi cho dân quản lý ( các công trình  có qui mô nhỏ hơn 5 00 ha  đối với miền núi  và nhỏ hơn 2000 ha đối với vùng đồng bằng). Các hệ thống công trình loại lớn Nhà nước chỉ quản lý công trình đầu mối và kênh trục chính  - phần còn lại chuyển giao cho dân quản lý thông qua tổ chức dùng nước do họ lập ra

 

            Qua nghiên cứu và từ thực tế ở Nepal có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau:

 

1.      Hệ thống công trình thuỷ lợi có qui mô thích hợp, nhất là công trình loại nhỏ giao cho nông dân quản lý sẽ hiệu quả hơn. Nhà nước chỉ nên tập trung quản lý các công trình thuỷ lợi loại lớn, có kỹ thuật phức tạp, quản lý công trình đầu mối, kênh trục chính.

 

Chính phủ Nepal đã có chủ trương chuyển giao (IMT) công trình cho  dân quản lý thể hiện bằng một chương trình hành động cụ thể ( chuyển giao hệ thống nào? khi nào chuyển giao) “Hành động từ trên xuống”  đảm bảo nguyên tắc nhà nước chỉ đạo .

 

2.      Nông dân đã qua nhiều năm ( có nơi đã qua 16 năm ) tham gia quản lý công trình hiệu quả hơn so với Nhà nước, họ nhận được lợi ích nên họ đã sẵn sàng tham gia Hội sử dụng nước để đảm nhận quản lý công trình khi được Nhà nước chuyển giao chính thức - “ Hành động từ dưới lên khớp nối với trên xuống”

 

3.      Nhà nước ( Nepal ) ban hành một số văn bản quy định  mang tính pháp lý để thực hiện việc chuyển giao công trình thuỷ lợi cho nông dân quản lý một cách hợp pháp, hợp lý và hiệu quả.

 

4.      Nông dân Nepal nhận được lợi ích (diện tích tưới tăng, năng suất cây trồng tăng, chi phí hợp lý … ) nên họ đã tham gia  Hội dùng nước một cách tự nguyện hòan toàn, không áp đặt  mặc dầu chưa có quy định  việc làm đơn xin ra nhập hội.

 

5.      Hội dùng nước có tư cách pháp nhân trên cơ sở :

 

-         Hoạt động theo điều lệ được hội nghị toàn thể của Hội thông qua và được cấp có thẩm  quyền phê duyệt ( phòng thuỷ lợi huyện)

-         Có đăng ký và quyết định thành lập  Hội do cấp huyện ký

-         Hội được thu các loại phí (chủ yếu là thuỷ lợi phí) sau khi đã bàn bạc thống nhất với dân

-         Phạm vi hoạt động của Hội không phụ thuộc địa giới hành chính

 

6.      Có mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội với các tổ chức khác trên cơ sở chức năng nhiệm vụ nhằm phối hợp hoạt động bao gồm :

 

-         Tổ chức quản lý của Nhà nước (Cục Thuỷ nông )

-         Chính quyền các cấp huyện, xã...

-         Các làng với hội và các làng với nhau

 

Thực hiện việc điều hành và quản lý khép kín theo tuyến kênh. Không theo địa giới hành chính

 

7.      Có các quy chế kiểm tra, kiểm soát hoạt động của hội nhất là hoạt động  tài chính được kiểm toán chặt chẽ thông qua sự chỉ đạo của ban kiểm toán của huyện.

 

8.      Xử lý vi phạm một cách nghiêm túc đảm bảo được sự công bằng trước pháp luật , nâng cao được niềm tin của người dân đối với Hội. Các quy định: nộp thuỷ lợi phí chậm sẽ bị phạt (có nơi phạt 20% số thuỷ lợi phí), không nộp thuỷ lợi phí sẽ bị cắt nước, phá hoại công trình, không tuân thủ việc lấy nước  cũng bị phạt. Mức phạt do các làng quy định chặt chẽ - “ Lệ làng”.   Nhà nước chưa có quy định chặt chẽ nhưng mại người vẫn chấp hành rất nghiêm chỉnh và lệ làng rất có hiệu lực đối với dân trong làng. Như vậy chỉ có họ tự qui định với nhau có hiệu lực hơn 

 

ở Việt Nam vẫn chờ đợi Nhà nước quy định, nhưng Nhà nước lại không quy định được nên hoạt động của tổ chức thuỷ nông  cơ sở rất khó khăn.

 

9.      Cán bộ của hội được đào tạo, nâng cao được năng lực thông qua chương trình đào tạo của các dự án. Họ nhận thức được vai trò và trách nhiệm của họ trong quản lý và vận hành hệ thống công trình đã giao cho họ quản lý.

 

10.  Hội dùng nước chỉ chịu trách nhiệm về nước tưới (chuyên khâu) không chịu trách nhiệm về các vấn đề khác như khuyến nông (dân tự lo, có nơi thành lập trung tâm khuyến nông ), xã hội , gánh chịu các chính sách xã hội…

 

Mức thu thuỷ lợi phí đưa quy định thấp và hầu hết Hội đều thu đủ , đảm bảo được vốn cho duy tu  bảo dưỡng. Tuy nhiên có Hội chỉ mới thu được 90% số thuỷ lợi phí quy định, 10% do một số hộ nông dân ốm đau chưa có trả. Để tăng thu nhập một số hội tổ chức nuôi bò sữa để lấy sữa và bán lấy tiền…

 

11.  Chính phủ có chính sách hỗ trợ tài chính cho hội trong trường hợp công trình bị hư hỏng nặng; sửa chưã lớn . Thủ tục tài chính được xét duyệt chặt chẽ và được cấp qua Huyện, nhằm đảm bảo cấp đúng chỗ và kịp thời.

 

12. Vai trò của cộng đồng, vai trò của phụ nữ trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi rất được coi trọng. Đặc biệt có những hội tỷ lệ phụ nữ trong Hội dùng nước chiếm  40 – 60% đã phát huy được tính tích cực, kiên nhẫn, thuyết phục của họ trong tổ chức vận động nam giới nhất là chồng của mình, quản lý, vận hành , thu, trả thuỷ lợi phí.

 

ở Việt Nam có gần 100 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn, hàng nghìn  hệ thống thuỷ lợi nhỏ đang phát huy hiệu quả chưa tương xứng với đầu tư, chi phí quản lý tăng, nhiều công trình xuống cấp, thuỷ lợi phí thu ở mức thấp nhưng thực tế thu còn thấp hơn cũng rất khó khăn và không đáp  ứng đườc yêu cầu chi phí

 

Trong nhiều năm qua các Hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ tưới nợ các công ty thuỷ nông của Nhà nước  hàng trăm tỷ đồng . Theo mức thu quy định ( chủ yếu thu theo qui định của Nghị định 112/HĐBT, chưa thu theo Nghị định 143/NĐ?CP )   thì thực tế bình quân cả nước  mới thu đạt 50%, hàng năm thiếu khoảng 30 – 40 triệu USD chưa đảm bảo đủ vốn cho duy tu bảo dưỡng, . Từ nhiều năm nay Nhà nước đã không thể bao cấp nổi. Mọi người đều nhận thức được điều này . Một số địa phương đã thực hiện chuyển giao cho nông dân quản lý  công trình thuỷ lợi trên địa bàn (hệ thống thuỷ lợi nhỏ ở Tuyên Quang, trạm bơm điện nhỏ ở Thái Bình, Hải Phòng, hồ đập nhỏ ở  Đắc Lắc, tuyến kênh liên xã ở Thanh Hoá, Nghệ An...) thông qua tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, hội, hợp tác xã dùng nước rất hiệu quả ( Năng suất cây trồng tăng, diện tích được tưới mở rộng, tăng vụ, tiết kiệm nước, chi phí quản lý thấp, tránh được việc tranh chấp nước căng thẳng )

Ơ một số Tỉnh như Tuyên Quang, Lào cai..Huyện Thái thuỵ, Thái Bình, hầu hết công trình đã giao cho tổ chức Hợp tác của dân quản lý theo nhiều hình tức khác nhau. Đặc biệt ở tỉnh Lào cai thì ngoài các mô hình Hợp  tác xã, tổ hợp tác còn có mô hình tự quản do các hộ nông dân lập ra hoạt động rất hiệu quả

 

Trong cuộc hội thảo tại Sapa ( Lào cai ) bàn về chính sách trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi do Tỉnh Lào cai chủ trì, tổ chức Oxfam Anh tài trợ,  lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh, Huyện, Xã ( gồm Chủ tịch UBND Tỉnh, Giám đốc Sở NN  và PTNT, lãnh đạo các ngành, các tổ chức xã hội như Hội nông dân, Phụ nữ..) tham dự. Qua hội thảo này các đại biểu nhất là chủ tịch UBND Tỉnh, Huyện, Giám đốc Sở NN và PTNT và các ban ngành liên quan trong tỉnh đều có chung một quan điểm là cần thiết phải có cơ chế chính sách toàn diện giao công trình thuỷ lợi cho dân quản lý thông qua tổ chức do họ lập ra là biện pháp nhằm giảm bao cấp của Nhà nước trong vận hành duy tu bảo dưỡng, mới đảm bảo công trình phát tối đa năng lực thiết kế, phục vụ hiệu quả và bền vững. Đặc biệt  chủ tịch  UBND một số Huyện có nhiều xã thuộc vùng 1,2 ( khó khăn và đặc biệt khó khăn ) đã khẳng là Nhà nước phải có cơ chế và chnh sách huy động sức dân trong việc trả thuỷ lợi phí ( trả cho chính họ ) nhằm nâng cao ý thức và gắn trách nhiệm với quyền lợi của họ trong việc bảo vệ và khai thác công trình thuỷ lợi, hạn chế việc miễn thuỷ lợi phí như đã qui định . Đây là một thách thức trước hết là về nhận thức

     

Như vậy, Việt Nam đã và đang thực hiện PIM (Nông dân tham gia quản lý tưới), đã có chính sách, có nhiều dự án hỗ trợ đào tạo, trong đó có DSE là tổ chức quan tâm hỗ trợ đào tạo đã 7 năm nay. 

 

Đặc biệt, ở nhiều địa phương, nông dân đã tự bỏ vốn  ra đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi, quản lý, thu thuỷ lợi phí tự trang trải, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long, công ty thuỷ nông của Nhà nước chỉ quản lý công trình đầu mối, kênh trục chính, phần còn lại đều do dân đầu tư và quản lý thông qua hợp tác hoặc tư nhân.

 

Nhiều Hội nghị đã tổng kết rút ra bài hoc kinh nghiệm tương tự như Nepal nhưng chỉ mới nằm trong khuôn khổ mô hình chưa phát triển mở rộng do nhiều nguyên nhân (nhận thức chưa đầy đủ, đặc biệt là nhận thức của một số cán bộ  vì lợi ích cá nhân hoặc tập thể cục bộ, Chính phủ chưa có chủ trương, chính sãch toàn diện, mặc dú Chính phủ đã ban hành nghị định 143/NĐ/CP, nhưng việc thực thi còn nhiều bất cập, chính quyền các cấp các ngành kể cả ngành Nông nghiệp chưa sẵn sàng...). Điều này ở Nepal đã khắc phục được.

 

Qua kết quả đạt được ở Nepal về PIM (tham gia quản lý tưới), IMT ( chuyển giao), liên hệ với thực tế thì trở ngại lớn nhất ở Việt Nam là: tổ chức sản xuất trên địa bàn nông thôn còn có sự chồng chéo, các tổ chức dịch vụ chưa được xác định, tư  tưởng bao cấp còn nặng nề, cực đoan, nhất là quản lý khai thác công trình thuỷ lợi vẫn phụ thuộc vào địa giới hành chính. Không ít cán bộ (ngành,  cấp, kể cả cấp xã) vẫn còn do dự, lo ngại do nhiều nguyên nhân trong đó có quyền lợi, quyền lực, tài sản, tài chính..nên , Đặc biệt là trong thời gian gần đây ở một số nơi có một số ít công trình ( chủ yếu là Trạm bơm điện ) đã giao cho tổ chức Hợp  tác. Sau một thời gian khai thác hư hỏng đã giao lại cho Nhà nước, nguyên nhân chủ yếu là do chưa có chính sách thoả đáng, thiếu  công bằng trong việc thu – trả thuỷ lợi phí, hộ trợ tài chính trong trường hợp thiên tai phá hoại ( trường hợp tương tự đối với doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước hộ trợ )..công trình xuống cấp họ trả lại cho Nhà nước. Một số cán bộ d nhận thức chưa đầy đủ vin vào trường hợp đó để chưa muốn thực hiện chuyển giao và  chưa đề xuất được cơ chế chính sách phù hợp cho IMT (Irrigation Management Transfer- Chuyển giao quản lý tưới) một cách tích cực mặc dù thực hiện PIM, IMT là rất hiệu quả.

 

Thực hiện Nghị quyết 15 NQ/TƯ ngày 18/2/2002 của Hội nghị lần thứ năm của BCHTW Đảng khoá X “Về việc nhanh chóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nông nghiệp &PTNT thời kỳ năm 2001-2010 “: “ Phát triển các Tổ chức Hợp tác dùng nước và quản lý thuỷ nông của nông dân “ … và qua bài học kinh nghiệm của Nepal, chúng tôi tin tưởng Việt Nam sẽ có những chuyển biến tích cực thực hiện PIM, IMT  đạt được hiệu quả cao nhất ./.

 

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o