» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81266775

 
Tư liệu
Gửi bài viết này cho bạn bè

Vai trò và hoạt động của PIM. (12/3/07)
"PIM" là gì? Chắc nhiều bạn đọc chưa quen với từ này? Nó là viết tắt theo tiếng Anh "Participatory Irrigation Management", nghĩa là "quản lý tưới có sự tham gia của người dân". Đây là một giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống tưới tiêu, góp phần vào tiến trình "xã hội hoá" thuỷ lợi. Giải pháp này đã được áp dụng thành công ở nhiều nước trong những điều kiện khác nhau. Các chuyên gia và tổ chức quốc tế luôn bày tỏ thiện chí giúp Việt Nam triển khai việc này. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân mà công việc tiến hành quá chậm. Để giúp bạn đọc tìm hiểu thêm về "PIM", chúng tôi xin giới thiệu bài viết khá công phu của ông Nguyễn Xuân Tiệp, nguyên Cục trưởng Cục Thuỷ lợi, một chuyên gia nhiều kinh nghiệm về "PIM". BBT.

 

Vai trò và hoạt động của PIM

Nguyễn Xuân Tiệp

Nguyên Phó Cục trưởng Cục Thuỷ lợi

1. Thực trạng về thuỷ lợi và PIM ở Việt Nam

Việt nam có nền lúa nước truyền thống lâu đời và từ thế kỷ 18 - 19 đã khẳng định được rằng: sự thành công của lúa nước là nhờ làm tốt công tác thuỷ lợi. Vì vậy thuỷ lợi có  một vai trò quan trọng đối với nông nghiệp Việt nam. Theo tài liệu điều tra ở Việt nam đã có 75 hệ thống thuỷ lợi loại vừa và lớn, hàng nghìn hệ thống thuỷ lợi loại nhỏ.

Để quản lý các hệ thống thuỷ lợi nói trên cả nước đã có 130 đơn vị khai thác công trình thuỷ lợi (KTCTTL) thuộc Nhà nư­ớc, chưa kể trạm, ban quản lý để khớp nối với các đơn vị quản lý của Nhà n­ước với các hộ nông dân, đã có khoảng 13.273 tổ chức Hợp tác dùng nư­ớc  chủ yếu là Hợp tác xã nông nghiệp có kết hợp làm dịch vụ tư­ới tiêu và tổ hợp tác (Hội), tổ, đội thủy nông... làm nhiệm vụ dẫn nư­ớc, cung cấp nư­ớc đến ruộng.

Theo tài liệu thống kê, diện tích đư­ợc tư­ới ổn định hàng năm đều tăng, năm 2001 tư­ới ổn định cho lúa đạt trên 6.400.000 ha, năm 2002 đạt trên 6.600.000 ha. Đặc biệt, những năm hạn hán gay gắt thì nơi nào công trình thuỷ lợi đư­ợc quản lý tốt thì nơi đó hạn ít gay gắt, những nơi tổ chức thuỷ nông cơ sở hoạt động tốt, nông dân có ý thức tiết kiệm nư­ớc thì không có hạn "giả tạo". Theo các tài liệu thì trong những năm gần đây  hạn hán xảy ra liên tục, nhưng hiện tư­ợng thiếu nư­ớc chỉ xảy ra ở những vùng chư­a có công trình thuỷ lợi hoặc công trình chư­a hoàn chỉnh, tổ chức quản lý chưa được củng cố (vụ đông xuân năm 2003 không có diện tích lúa trong vùng có công trình thuỷ lợi, diện tích bị hạn ngoài vùng phục vụ: 15.291 ha).

Để đảm bảo công trình vận hành an toàn, hàng năm ngoài nguồn vốn Nhà n­ước đầu tư­ nâng cấp sửa chữa, nâng cấp, khôi phục còn rất hạn chế, cần có vốn cho duy tu bảo dưỡng (O&M) được huy động chủ yếu từ nguồn thu thuỷ lợi phí. Theo tài liệu điều tra thì trên 90% nông dân trong vùng được tưới trả đủ thuỷ lợi phí theo mức qui định, nh­ưng do thất thu vì bị chiếm dụng, cơ chế giá, phư­ơng thức thu (bằng thóc), nên hàng năm chỉ thu đ­ược khoảng 500¸600 tỷ đồng (tương đương 35-40 triệu USD), tuy chư­a đáp ứng yêu cầu cho duy tu bảo d­ưỡng như­ng đã giảm được bao cấp đáng kể, có thêm vốn để hoạt động.

Tuy nhiên, kết quả đạt đư­ợc về tư­ới tiêu vẫn chưa tư­ơng xứng với đầu tư. Theo tài liệu điều tra thì bình quân cả nư­ớc các hệ thống thuỷ lợi mới đảm bảo tưới ổn định 50¸60% so với thiết kế. Trong đó có hệ thống mới đảm bảo tư­ới 25¸30% diện tích thiết kế  (chủ yếu là các hệ thống thuỷ lợi nhỏ), hầu hết các hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn đảm bảo tưới 90¸100% diện tích, như­ng phải có các biện pháp khác hỗ trợ nên đã làm cho chi phí quản lý tăng lên, nhất là vùng cuối kênh.

Theo các tài liệu điều tra trên tuyến kênh liên xã thì các xã đầu kênh sử dụng nước lãng phí gấp 5–10 lần so với thiết kế, nên khoảng 50-70 % diện tích của các xã giữa kênh và khoảng 90–100 % diện tích của các xã cuối kênh thiếu nước. Đã dẫn đến tình trạng chi phí phục vụ cho tưới đối với diện tích của các xã cuối kênh tăng lên đáng kể (chi phí tăng 1,64-2 lần). Do chất lượng tưới kém nên năng suất giảm 1,55-2 lần so với các xã đầu kênh, đặc biệt là xung đột thường xảy ra giữa các xã do tranh chấp nước và công trình xuống cấp nhanh hơn.

Một thực trạng đang diễn ra là các công trình thuỷ lợi nhỏ phạm vi thôn, xã, liên xã,  nhất là nhiều công trình thuỷ lợi ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa còn bị bỏ ngỏ, chư­a có chủ quản lý thực sự, do chư­a có sự phân công, phân cấp, có cơ chế chính sách phù hợp, thiếu vốn duy tu bảo dư­ỡng, đang trong tình trạng xuống cấp phát huy hiệu quả thấp, thậm chí có công trình đã bị huỷ liệt.

Trư­ớc tình hình trên một số địa phư­ơng đã củng cố tổ chức thuỷ nông cơ sở chuyển giao cho nông dân quản lý công trình trên địa bàn của họ (IMT), thực hiện xã hội hoá về thuỷ lợi, phát huy đ­ược vai trò của ng­ười dân tham gia quản lý công trình thuỷ lợi (PIM) hiệu quả.

Thực tế đang diễn ra là một số ít tỉnh hầu hết công trình thuỷ lợi trên địa bàn tỉnh do tổ chức hợp tác của dân quản lý. Kết quả đạt được đã cho thấy: đối với công trình thuỷ lợi có quy mô nhỏ, kể cả cấp kênh xã, liên xã thuộc các hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn khi giao quyền quản lý cho tổ chức của nông dân, sẽ phát huy hiệu quả cao hơn.

Từ thực tế ở Việt nam và từ các đặc điểm chủ yếu của công trình thuỷ lợi là: nằm rải rác trên diện rộng, thường xuyên chịu tác động phá hoại của thiên nhiên, con ngư­ời và khi bị hỏng phải sửa chữa tốn kém, Chính phủ không thể đảm đư­ơng hết công việc O&M đến tận cánh đồng, mỗi hộ nông dân không thể giải quyết đư­ợc vấn đề nư­ớc tư­ới tiêu mà phải dựa vào cộng đồng tập thể (PIM), Nhà nư­ớc.

Vì vậy có thể khẳng định là không thể thiếu vai trò của ng­ười dân tham gia O&M (PIM) và PIM được coi là một giải pháp hữu hiệu nhất để phát huy tối đa năng lực của công trình thuỷ lợi một cách bền vững.

Và PIM ở Việt Nam? Đã thực sự chia sẻ trách nhiệm đầu tư thuỷ lợi cho người dân, giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước, nâng cao trách nhiệm của ngư­ời dân trong O&M đối với hệ thống thuỷ lợi, góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống thể hiện cả về số lượng, chất lượng, thể hiện ở giá thành thấp.

2. PIM và các căn cứ để phát triển PIM ở Việt Nam

+ PIM là tiền đề của xã hội hoá về thuỷ lợi: Tính cộng đồng, làng xã, mang tính huyết thống trong mọi hoạt động ở nông thôn, nhất là trong việc chống thiên tai, đắp đê, đập ngăn nước, đào kênh dẫn, tháo nước.., làm thuỷ lợi (PIM). Như vậy người dân đã thực hiện PIM, thực hiện xã hội hoá về thuỷ lợi.

Thế kỷ 18 – 19: Thuỷ lợi đã được khẳng định là công việc của cộng đồng (PIM).

3. Chủ trư­ơng về PIM:

Nhà nước có nhiều chủ trương và chính sách khẳng định vai trò của PIM:

…Xây dựng mạng l­ưới thuỷ lợi kết hợp với các công trình hạng nhỏ do nhân dân làm với các công trình hạng vừa và hạng lớn do Nhà n­ước hoặc Nhà nư­ớc và nhân dân cùng làm…” (Kế hoạch 5 năm).

            Khẳng định chủ trư­ơng “Nhà nư­ớc và nhân dân cùng làm”.

            Và phư­ơng châm “…Kết hợp giữ, dẫn, tháo, kết hợp công trình lớn, vừa, nhỏ, kết hợp giữa Nhà n­ước và nhân dân cùng làm …

           + Các qui định về PIM và liên quan:

            Sắc lệnh số 68–SL ngày 18/6/1949: Vận động nhân dân tham gia bằng cách giúp đổi công và của vào việc xây dựng tu bổ và khai thác các công trình thuỷ nông sau khi đ­ược ban kháng chiến thoả thuận

            Nghị định 141/CP – 16/9/1963: Huy động ngư­ời dân tham gia quản lý công trình thuỷ lợi:“mỗi ngư­ời dân có nghĩa vụ tham gia quản lý, tu sửa, bảo vệ …”(Điều 12).

            Đối với các hệ thống thuỷ nông loại nhỏ và tiểu thuỷ nông có liên quan đến nhiều hợp tác xã (HTX) trở lên, các chi phí về quản lý, tu bổ khai thác đều do HTX và nông dân có ruộng đất h­ưởng nư­ớc cùng nhau thoả thuận đóng góp”.

            “Ở mỗi hệ thống thuỷ nông loại nhỏ hoặc tiểu thuỷ nông liên quan đến một vài xã hoặc nhiều hợp tác xã thì giữa các hợp tác xã hoặc các xã hư­ởng nư­ớc thoả thuận của ng­ười phụ trách hoặc phân công quản lý”. (Điều 16).

Nghị định 112 HĐBT – 25/8/1984: “… Đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền và nhân dân trong việc bảo vệ, quản lý, sử dụng tốt công trình thuỷ lợi …”.

         Luật Tài nguyên n­ước với nội dung liên quan đến PIM :

     -  Trách nhiệm tài chính: đóng góp công sức cho việc xây dựng công trình, bảo vệ khai thác, sử dụng tài nguyên n­ước, nghĩa vụ tài chính đối với việc h­ưởng lợi từ công trình thủy lợi.

      -  Tính hệ thống của l­ưu vực, không theo địa giới hành chính.

      - Mỗi công trình thuỷ lợi do một tổ chức hoặc cá nhân quản lý trực tiếp.

Nghị định của Chính phủ số 29/1998/NĐ/CP ngày 11/5/1998: Khẳng định tính dân chủ là cơ sở đảm bảo PIM bền vững.

“Quy định những việc chính quyền địa ph­ương phải thông tin và công khai để dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiến tr­ước khi  Nhà nư­ớc quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ…”.

Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị ngày 10/11/98: Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn: “Có chính sách khuyến khích nhân dân tham gia đầu tư­, quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi …”.

       Nghị quyết 15/NQ/TW “về việc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010: “Phát triển tổ chức hợp tác dùng n­ước quản lý thuỷ nông nông thôn“.

       Pháp lệnh khai thác và bảo vệ CTTL – 4/4/2001:.                              

-  Tổ chức Hợp tác dùng n­ước:

         -   Chuyển giao cho tổ chức Hợp tác dùng nư­ớc quản lý ...".

        Nghị định của Chính phủ “Qui định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi“ số 143/2003/ND-CP, ngày 28/11/2003, đã thể hiện được đầy đủ về:

Chính sách thuỷ lợi phí, chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách về PIM,IMT.

         Luật Hợp tác xã (tính tự nguyện), Luật dân sự (Tổ hợp tác).

 Thông tư số 06/ 1998/TT-BNN-TCCB, ngày 3/9/1998 “Hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Công ty khai thác công trình thuỷ lợi“ qui định về nguyên tắc tổ chức Công ty KTCTTL đã khẳng định qui mô phạm vi quản lý của công ty.

 Bộ Nông nghiệp & PTNT đã có nhiều văn bản chỉ đạo trực tiếp một số tỉnh, nhất là các tỉnh có các dự án thuỷ lợi thuộc nguồn vốn vay của ADB, WB, DANIDA... thực hiện chủ trương về PIM.

4. “PIM"? Viết tắt từ cụm từ Participatory Irrigation Management- Quản lý tưới có sự tham gia của người dân. Theo nghĩa mà chúng ta hay sử dụng thường hay muốn nói đến tình trạng sau khi thực hiện chuyển giao công trình (IMT) cho tổ chức của dân quản lý - người dân tham gia. Và IMT - Viết tắt từ cụm từ Irrigation Management Transfer -Chuyển giao quản lý tưới là nói đến hành động chuyển giao từ Nhà nước cho tổ chức của dân quản lý.

PIM hay IMT: hai khái niệm này hay được sử dụng thay thế cho nhau. Nhưng khái niệm IMT không hoàn toàn giống PIM

Mục tiêu của PIM là hiệu quả. Vì thế PIM chỉ phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể trong từng trường hợp cụ thể để đạt được hiệu quả mong muốn.

        Từ ngày 7-11 tháng 4 năm 1997 Hội thảo Quốc gia đầu tiên về PIM ở Việt nam được tổ chức tại Cửa Lò - Nghệ An do ADB tài trợ thông qua dự án trợ giúp kỹ thuật TA1, thảo luận về PIM. Và cụm từ PIM đã bắt đầu được sử dụng trong các văn bản, trong các Hội nghị, Hội thảo, các khoá đào tạo... ở Việt nam, mặc dầu khái niệm, nội dung về PIM đã có từ lâu.

          Từ ngày 13-15 tháng 4 năm 1998 Hội thảo Quốc gia về PIM lần thứ 2 đã được tổ chức tại Sầm sơn, Thanh hoá đã thông qua dự thảo Văn bản 1959/BNN-QLN Tăng cường củng cố và đổi mới tổ chức thuỷ nông cơ sở và đã được ký ban hành ngày 12/5/1998.

 Và đã thành lập Màng lưới PIM Việt nam - Viết tắt VNPIM (Quyết định số 126-1998/QĐ/BNN-TCCB ngày 8/9/1998).

          Một số ít tỉnh đã quan tâm chỉ đạo phát triển PIM, đã thành lập ban chỉ đạo về PIM của tỉnh (Đắc Lắc... ), nhằm củng cố tổ chức thuỷ nông ở cơ sở để phát huy vai trò của người hưởng lợi theo hướng PIM.

        4.1.  Hiệu quả của PIM ở Việt nam.

Theo tài liệu điều tra hiện có 19.391 công trình (chiếm 91% tổng số) phục vụ tưới cho 80% tổng diện tích được tưới do các đơn vị khai thác công trình thuỷ lợi (KTCTTL) thuộc Nhà nư­ớc quản lý. Số công trình còn lại (chỉ có 9%) do các tổ chức tập thể và cá­ nhân quản lý  nhưng lại phục vụ tưới cho 20% tổng diện tích được tưới . Điều này cho thấy tỷ trọng diện tích do tổ chức của những người sử dụng nước phụ trách lớn và hiệu quả .

Theo tài liệu thống kê trong số 13.273 tổ chức hợp tác dùng nư­ớc có 11.249 HTXNN có làm dịch vụ tư­ới, 958 tổ chức Hợp tác dùng nư­ớc, gần 1.039 tổ, đội...) làm chức năng “cầu nối” giữa tổ chức của Nhà nư­ớc (công ty, xí nghiệp KTCTTL) và các hộ nông dân với nhiều loại hình khác nhau (đa dạng).

        Công trình do tổ chức hợp tác nông nghiệp (HTXDN) và các Hợp tác xã dùng nước (HTDN) quản lý phần lớn do Nhà nước đầu tư (có nơi Nhà nước đầu tư 100%)  nhân dân đóng góp với tỷ lệ không đồng đều, tạo ra sự không công bằng giữa các vùng (như đồng bằng sông Hồng tỷ lệ dân đóng góp chỉ bằng 12,3% Trong khi đó đồng bằng sông Cửu long dân đóng góp là 63,3%). Theo tài liệu điều tra thì các tỉnh phía Bắc nhất là Đồng bằng sông Hồng có 96,7% tổ chức hợp tác dùng nước (HTDN) là Hợp tác xã Nông nghiệp (HTXNN) có kết hợp làm dịch vụ tưới (còn lại chỉ 3,3 % tổ chức khác). Các tỉnh phía Nam chỉ có 60-70 % tổ chức HTDN là HTXNN kết hợp làm dịch vụ tưới, còn lại 30-40 % là các tổ chức khác... Như vậy mô hình PIM được phát triển trên các vùng với hình thức, qui mô và kết quả hoạt động rất khác nhau vì nó phụ thuộc vào nhận thức của cán bộ, trình độ dân trí, tình hình thực tế, tính chất và  qui mô của hệ thống thuỷ lợi, cơ chế chính sách, sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của chính quyền ở địa phương.

 Đã có nhiều báo cáo tổng kết, đánh giá hiệu quả của các loại hình  tổ chức PIM với các qui mô khác nhau thuộc các dự án đầu tư , dự án trợ giúp kỹ thuật do các tổ chức quản lý dự án, ngành ở cả địa phương và TW thực hiện gồm các loại hình tiêu biểu có qui mô và  tên gọi khác nhau:

-   Mô hình liên xã (3-4 xã): Quản lý tuyến kênh thuộc các hệ thống thuỷ lợi loại vừa và lớn, phục vụ tưới cho 200 – 500 ha có ở các tỉnh như Thanh hoá, Nghệ An, Thái Bình ... với tên gọi: HTXNN, Hợp tác xã dùng nước, Hội dùng nước, loại hình này thực hiện việc quản lý công trình (cấp kênh) không theo địa giới hành chính, công khai tài chính, hoạt động rất hiệu quả, nhưng gần 10 năm nay mới phát triển với số lượng ít. Nếu phát triển, mở rộng loại hình này sẽ tác động đến việc dư thừa lao động trong các công ty KTCTTL, quyền lực, lợi ích cục bộ của các xã trong vùng, (theo địa giới hành chính) của công ty KTCTTL. Việc mở rộng mô hình loại này còn gặp nhiều khó khăn.

-  Mô hình liên xã (1 – 2 xã): Quản lý kênh, công trình phục vụ tưới cho dưới 200 ha thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Thái Bình...với tên gọi Ban quản lý, HTX. Nhưng tính chất hoạt động của loại hình “Ban” không phù hợp với tên gọi, làm dịch vụ tương tự tổ, đội thuỷ nông trong HTXNN, nhưng độc lập hơn vì có tài khoản riêng ở kho bạc và trong trường hợp “Ban” trực thuộc HTXNLN (Tuyên Quang) thì “Ban” cũng thực hiện hạch toán riêng.

-  Mô hình 1 xã hoặc nhiều thôn trong 1 xã:  Quản lý tuyến kênh, hoặc một phần của tuyến kênh, Trạm bơm phục vụ trong phạm vi xã (theo địa giới hành chính) thuộc các hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn, hoặc hệ thống công trình thuỷ lợi nhỏ (trạm bơm, hồ chứa). Loại hình này có ở hầu hết các vùng với các tên gọi khác nhau, nhưng phổ biến vẩn là loại hình HTXNN,  HTX thuỷ nông (vùng đồng bằng sông Hồng có 96,7 %, vùng Đông Nam bộ có 58,5 %, Đồng bằng Sông Cửu long 72,99 %, Tây nguyên 62,8 % Tổ chức HTDN là HTXNN.. Số còn lại có tên gọi là Hội dùng nước, Tổ hợp tác (góp cổ phần), Tổ, Đội, Ban... Riêng tư nhân quản lý công trình do họ bỏ vốn họăc do thắng thầu quản lý công trình tuỳ theo qui mô có tên gọi riêng (Trạm bơm Anh Lân, trạm bơm nhà Anh Phan văn Thuận ...).

   Phần lớn các HTX làm dịch vụ tưới (chuyên khâu tưới), hoặc HTX làm dịch vụ tổng hợp, nhưng trong đó dịch vụ tưới được hạch toán riêng, hoặc Tổ Hợp tác chuyên khâu thì thuỷ lợi phí được chi đúng, đủ cho O&M, đảm bảo tài chính công khai và trong điều kiện thời tiết bình thường hoạt động đều có lãi (HTX Phú An - An Giang,  HTX Thuận Hoà - Tân Phú, Đồng Tháp tỷ lệ lãi thu được 50 – 60%/ năm... ). Loại hình hạch toán riêng tập trung ở vùng Duyên hải miền trung 67,7%, đồng bằng Sông Cửu Long 60,7%, Tây Nguyên 71,9%. Riêng Tiền Giang 82,6(%).

Hiệu quả hoạt động của tất cả các loại hình tổ chức hợp tác dùng nước thực sự do người sử dụng nước lập ra đều thể hiện ở một số nội dung:

Công trình đã có chủ quản lý đích thực, khắc phục, sửa chữa kịp thời những hư hỏng, nước tưới được phân phối công bằng, đảm bảo yêu cầu nước cả về chất và lượng, góp phần tăng năng suất cây trồng, tiết kiệm được nước (khoảng 20-30%), tiết kiệm điện khoảng 20-30% (đối với hệ thống bơm điện) công trình ít hư hỏng, giảm được chi phí tu sửa, giảm lao động (khoảng 20-50%). Người dân được đào tạo và được quyền tham gia bàn bạc, thuỷ lợi phí được thu đủ, đúng thời gian, tài chính công khai không còn hiện tượng tranh chấp nước căng thẳng, hạn chế được sự can thiệp không đúng chỗ của chính quyền và quan trọng hơn cả là chi phí quản lý giảm đáng kể là khoản tiền mà nông dân phải gánh chịu, được dân đồng tình...”. 

4.2.  Tổ chức và hoạt động của VNPIM và PIM.

Với chức năng, nhiệm vụ đư­ợc giao (theo Quyết định số: 126-1998/Q§/BNN-TCCB) tổ chức và hoạt động của VNPIM trong những năm qua đã đạt đư­ợc một số kết quả cụ thể đáng khích lệ. Đặc biệt là đư­ợc sự hỗ trợ về tài chính, nhân lực, VNPIM đã tổ chức 5 hội thảo quốc gia và 15 hội thảo chuyên đề về PIM và IMT, tạo ra đ­ược sự chuyển động tích cực về nhận thức về PIM trong hàng ngũ cán bộ và nhân dân , phổ biến các cơ chế chính sách, trao đổi những kinh nghiệm về PIM giữa các vùng, trực tiếp chỉ đạo thực hiện nhiều mô hình điểm thực nghiệm về PIM trong cả nư­ớc.

Các hợp tác xã dùng nư­ớc, Hội những người sử dụng nước ở Nghệ An, Thanh Hoá là mô hình đầu tiên ở Việt nam với qui mô liên xã vẫn đang tồn tại và phục vụ tốt, đáp ứng đ­ược nhu cầu của ng­ười dân trong vùng.

Rút kinh nghiệm qua các khoá đào tạo, qua các hội thảo do VNPIM tổ chức, nhiều tổ chức hợp tác tư­ới tiêu,  hợp tác xã dùng nư­ớc, hợp tác xã chuyên khâu thuỷ nông đư­ợc thành lập và hoạt động tại nhiều tỉnh với qui mô khác nhau.

Cùng với một số cơ quan có chức năng, đư­ợc sự trợ giúp của một số tổ chức khác, VNPIM đã tổ chức đư­ợc nhiều khoá tập huấn đào tạo cho cán bộ, nông dân của các tổ chức thuỷ nông cơ sở; cán bộ, công nhân của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi trong cả nư­ớc. Đến nay đã có trên 10.000 ngư­ời dân tham gia các lớp tập huấn, khoảng gần 500 cán bộ công ty thuỷ nông tham gia các khoá đào tạo về lĩnh vực PIM.

Cùng với các tổ chức quốc tế, NGOs, VNPIM cũng đã chỉ đạo, hư­ớng dẫn một số tỉnh (công ty KTCTTL là thành viên của VNPIM) tổ chức các lớp tập huấn và các cuộc hội thảo chuyên đề, soạn thảo chính sách về PIM, các chính sách liên quan, tập huấn về cách tổ chức mô hình PIM, IMT trên địa bàn vùng nghèo như­ Bắc Kạn, Cao Bằng... Đặc biệt là phối hợp với DSE, Trường đào tạo cán bộ chủ chốt để làm hư­ớng dẫn đào tạo PIM ở cơ sở, phối hợp chặt chẽ với OXFAM Anh để chỉ đạo việc soạn thảo các chính sách, xây dựng mô hình PIM trên địa bàn do OXFAM Anh tài trợ.

VNPIM cũng đã biên soạn và cho in trên 10000 cuốn sách về PIM bao gồm nội dung về tổ chức và hoạt động của công tác tổ chức thuỷ nông cơ sở, hư­ớng dẫn kỹ thuật tư­ới tiêu cho một số loại cây trồng, Những cân nhắc khi thực hiện chuyển giao dịch vụ trong lĩnh vực thuỷ nông, thông tin kinh nghiệm nước ngoài về PIM...

Gần đây Tổ chức Ngân hàng Thế giới đã coi trọng vai trò của PIM trong dự án đầu tư do WB tài trợ nên đã có sự ràng buộc PIM trong cơ chế đầu tư, đã thực sự tạo cơ hội cho VNPIM phát huy vai trò, kinh nghiệm của mình trong việc thực hiện dự án đầu tư. VNPIM đã tham gia, trực tiếp soạn thảo hợp phần về đào tạo, PIM của dự án WB3 là một nội dung quan trọng của dự án. Điều này đã khẳng định WB đã quan tâm đến PIM, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức về PIM cho cán bộ Việt nam, nhất là cán bộ thực hiện dự án thuỷ lợi.

 VNPIM cũng đã phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Báo Nông nghiệp Việt nam, Trung tâm thông tin.. tuyên truyền phổ biến sâu rộng về PIM, qua các băng hình, bài viết giới thiệu về PIM và hiệu quả về PIM.

Và VNPIM có vai trò quan trọng trong việc tham gia vào củng cố, phát triển tổ chức và hoạt động của tổ chức Hợp tác dùng nước.

4.3.      Những tồn tại và trở ngại về PIM.

Đã có chủ trương và hiệu quả về PIM đã được khẳng định, nhất là đối với loại hình có qui mô liên xã và VNPIM hoạt động rất tích cực , nhưng câu hỏi đặt ra là: “Tại sao các mô hình PIM nhất là mô hình liên xã không được mở rộng, nói cách khác là PIM vẫn chưa phát triển, hoặc phát triển kém bền vững, nhất là đối với các hệ thống thuỷ lợi loại vừa và lớn, vùng được Nhà nước đầu tư thuỷ lợi nhiều và hoàn chỉnh nhất?

Tồn tại? Trở ngại? Và thực tế đang xẩy ra:

- Hầu hết các HTXNN qui mô xã (theo địa giới hành chính) là mô hình phổ biến đều làm dịch vụ tổng hợp trong đó có kết hợp làm dịch vụ tưới, nhưng nguồn thu chủ yếu (96 %) của HTXNN là thu từ thuỷ lợi phí và dịch vụ thuỷ lợi được hạch toán chung với các dịch vụ khác, tài chính không được công khai, nên thuỷ lợi phí thu được thường sử dụng sai mục đích, chiếm dụng, thiếu vốn cho O&M, công trình xuống cấp. Nhiều trường hợp (24-30%)  HTXNN không ký hợp đồng dùng nước, không trả đủ thuỷ lợi phí cho công ty thuỷ nông (thậm chí có nơi không chi cho tu sửa công trình, công trình xuống cấp, nhưng vẫn tạo ra được “lãi“ giả.

- Theo tài liệu điều tra chỉ có khoảng 20-25% số xã viên làm đơn xin vào HTXNN có làm dịch vụ tưới có 75-80%  ghi tên... Vì vậy chưa thể hiện được tính tự nguyện hoàn toàn, sự đảm bảo tính bền vững của HTXNN có làm dịch vụ tưới.

- Các mô hình PIM được thành lập theo các hình thức khác:chuyên khâu về tưới, kể cả loại hình HTXNN thực hiện hạch toán riêng dịch vụ tưới) hoạt động rất hiệu quả (nhất là loại hình HTDN liên xã, không theo địa giới hành chính), nhưng hiệu quả phần lớn loại hình này chỉ đạt được trong thời gian đầu (nhất là mô hình tư nhân) không có tư cách pháp nhân, nơi làm việc và đặc biệt là khi gặp thiên tai, giá cả về vật tư, điện... tăng, đã làm tăng giá thành về quản lý (đầu vào),  làm mất cân đối Thu – Chi. Nhà nước không có chính sách khuyến khích và  hỗ trợ nhất là khi có thiên tai xẩy ra  (chính sách tài chính, đào tạo) như đối với Công ty KTCTTL, chính quyền địa phương thường hay can thiệp vào hoạt động tài chính, ít tạo điều kiện cho tổ chức này hoạt động,  tạo ra sự mất công bằng giữa tổ chức quản lý của nhà nước (Doanh nghiệp) và tổ chức tập thể (Hội), tư nhân, giữa vùng này và vùng khác nên nông dân thiếu tin tưởng, nên hoạt động khó khăn, buộc “phải tự giải tán“, hoặc hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy nhiều HTX, HTDN  phải “trả lại” những công trình được giao cho tổ chức của nhà nước quản lý.

Một số cán bộ, nhất là những cán bộ ngại khó, thiếu kiến thức thực tế, không muốn có sự thay đổi (PIM), tư tưởng bao cấp nặng nề đã căn cứ tình hình đó để đưa ra kết luận “giao công trình cho dân quản lý sẽ hư hỏng nhanh hơn“, làm ảnh hưởng đến nhận thức về PIM của cán bộ các cấp, ngành, kể cả cán bộ chủ chốt, nên không muốn thực thi các chủ trương, chính sách  về PIM, IMT và PIM chưa được phát triển.

- Mọi người (kể cả cán bộ quản lý ngành) đều quan tâm đến phần xây dựng công trình (phần cứng)  nhất là kinh phí đầu tư từ nguồn vốn của Nhà nước (vốn vay, vốn ngân sách) hầu như ít quan tâm đến quản lý (phần mềm) nên đã hạn chế và thiếu kịp thời trong việc đề xuất các cơ chế chính sách, củng cố tổ chức quản lý theo hướng PIM.

- Cơ chế đầu tư vốn xây dựng, khôi phục, nâng cấp công trình thiếu sự ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của người hưởng lợi (người dân) từ công trình thuỷ lợi, coi nhẹ sự tham gia của họ trong quá trình đầu tư, xây dựng, quản lý đã dẫn đến công trình được xây dựng thiếu hoàn chỉnh, đồng bộ.

- Không ít cán bộ ngành, cấp kể cả cán bộ trực tiếp quản lý khai thác c¸c công trình thuỷ lợi, cán bộ quản lý các dự án đầu tư thuỷ lợi…, thiếu kinh nghiệm thực tế, trình độ hiểu biết chuyên ngành (đặc biệt về PIM) còn yếu, tư tưởng quan liêu bao cấp nặng nề, ngại khó, nặng hình thức, thiếu năng lực quản lý… là một trở ngại lớn nhất trong việc hoạch định các cơ chế chính sách về PIM thực thi dự án đạt hiệu quả cao, thậm chí có cán bộ đến nay chưa quán triệt được nội dung hiệu quả của PIM. Vì vậy cán bộ là vấn đề thách thức nhất gây trở ngại cho việc thực hiện chủ trương về PIM.

- Việc đánh giá hiệu quả của các dự án thuỷ lợi (kể cả dự án vay vốn của ADB, WB) sau khi kết thúc quá trình đầu tư được thể hiện bằng một báo cáo chung, khẳng định về số lượng công trình, kinh phí đầu tư vì các chỉ tiêu diện tích, năng suất, sản lượng đạt được, hầu như chưa khẳng định được hiệu quả công trình mà người dân nhận được thông qua giá thành quản lý tưới để tạo ra được năng suất và sản lượng nói trên, có nghĩa là chưa đề cập đến quản lý (nhất là tổ chức PIM, IMT) là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công trình thuỷ lợi. Điều này xuất phát từ việc tổ chức quản lý dự án, nhận thức của cán bộ thực hiện dự án chưa đáp ứng, tạo ra một “sự lạc quan”, chủ quan trong việc đánh giá hiệu quả dự án.

Vì vậy, hiệu quả của các dự án đã được đầu tư kể cả các dự án vốn vay của ADB, WB trong nhiều năm gần đây cần có sự đánh giá đúng mức và rút kinh nghiệm nhằm đạt được hiệu quả tương xứng với vốn đầu tư.

- Mặc dù VNPIM làm được nhiều việc nhưng VNPIM hoạt động vẫn hạn chế do không có cán bộ chuyên trách, thiếu sự quan tâm của Bộ trong việc tạo điều kiện, môi trường pháp lý về PIM nói chung, hoạt động của VNPIM nói riêng. Đặc biệt là trong quá trình phê duyệt, thẩm định các dự án đầu tư, kể cả dự án vốn vay của ADB, WB... hầu như chưa có sự ràng buộc đáng kể để chính quyền địa phương, người hưởng lợi có sự cam kết thực hiện nội dung PIM, nâng cao vai trò của VNPIM trong việc thực hiện các dự án đầu tư.

- Chưa huy động các chuyên gia chuyên sâu về PIM tham gia giải quyết các công việc về lĩnh vực PIM trong các dự án thuỷ lợi, tình trạng sử dụng những cán bộ thiếu kinh nghiệm, thiếu thực tế để thực hiện nội dung về PIM (tổ chức, đào tạo, cơ chế chính sách...) đã ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của dự án và có thể khẳng định là cơ quan quản lý dự án thiếu trách nhiệm, coi nhẹ PIM.

- Các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư từ nguồn vốn vay nước ngoài có đề cập đến chương trình đào tạo của dự án trong đó có nội dung PIM, thể chế về quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, nhưng qua theo rõi thì việc thực thi chương trình đào tạo (nội dung PIM) chưa phù hợp với yêu cầu, đối tượng đào tạo.

- Công trình thuỷ lợi trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý. Nhiều địa phương chưa phát huy được vai trò của địa phương để quản lý, chưa sử dụng phạm vi, quyền hạn của mình để ban hành các cơ chế chính sách cho phù hợp với địa phương, trên cơ sở cơ chế, chính sách khung hoặc chủ trương của Nhà nước, nên đã hạn chế tính tích cực, kịp thời, tính thực tế, nhất là các cơ chế chính sách về PIM.

- Chính quyền địa phương thường ít quan tâm đến công tác quản lý mà nặng về đầu tư xây dựng vì đó là “thành tích” dễ thấy nên chưa tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển PIM.

- Các cơ chế chính sách về PIM và chính sách liên quan như chính sách thuỷ lợi phí, chính sách chuyển giao (IMT) chưa được cơ quan có trách nhiệm soạn thảo, ban hành kịp thời trong đó có trách nhiệm và vai trò của ngành từ TW đến địa phương nên chưa tạo được môi trường pháp lý định hướng phát triển về PIM gắn với kế hoạch phát triển thuỷ lợi toàn diện nhất là đối với các dự án vốn vay lớn đang được thực hiện của ADB, WB ở đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng...

5.   Những kiến nghị và giải pháp.

Để khắc phục những tồn tại và trở ngại trên xin kiến nghị:

- Xây dựng một khung chiến lược toàn diện phát triển PIM là môi trường pháp lý cao nhất để xây dựng kế hoạch, phát triển PIM trên từng vùng trong cả nước. Để làm được điều này cần có sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp & PTNT, có kế hoạch và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế về các mặt.

- Xây dựng mô hình thực nghiệm, có kế hoạch thực hiện PIM theo các loại hình khác nhau, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng loại công trình, phát huy, mở rộng nhân rộng những loại hình đang hoạt động có hiệu quả.

- Nghiên cứu tổ chức PIM phù hợp với yêu cầu hiện đại hoá hệ thống thuỷ lợi. Những nơi có điều kiện thực hiện trả thuỷ lợi phí bằng m3 nước sử dụng.

- Bộ Nông nghiệp và PTNT là cơ quan chuyên ngành cao nhất cần có kế hoạch soạn thảo ban hành kịp thời các văn bản, cụ thể hoá Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Nghị định 143/2003/NĐ-CP về lĩnh vực PIM, trong đó quí II-2004 ban hành thông tư hướng dẫn tổ chức và hoạt động của HTXDN nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc đẩy mạnh tổ chức và hoạt động của HTXDN có tư cách pháp nhân, tự chủ tài chính.

- UBND các tỉnh với phạm vi và quyền hạn ban hành kịp thời các chính sách về PIM, trách nhiệm của chính quyền các cấp đối với việc thực hiện kế hoạch chuyển giao (IMT) theo Nghị định 143/2003/NĐ-CP, để sau 5 năm (đến năm 2008), tổ chức HTDN quản lý các kênh cấp dưới trên địa bàn, xã, liên xã được củng cố và hoạt động, tự chủ được quản lý vận hành duy tu bảo dưỡng (O~M) công trình đã được giao, giảm giá thành quản lý, thu đủ thuỷ lợi phí, tạo điều kiện cho các IMC tự chủ tài chính.

- Củng cố tổ chức VNPIM làm tốt chức năng tư vấn cho Cục Thuỷ lợi, Bộ Nông nghiệp & PTNT, mở rộng mạng lưới trong phạm vi cả nước. Hoạt động của VNPIM thông qua “Tổ chức câu lạc bộ” ”nhóm đặc nhiệm”  có cán bộ chuyên sâu, chuyên trách, có đủ năng lực thực hiện các chương trình về PIM, đào tạo, xây dựng mô hình PIM, xây dựng các cơ chế chính sách về PIM trong các dự án cụ thể.

VNPIM hoạt động tư vấn độc lập nhưng phải gắn chặt với các hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước để có sự hỗ trợ tích cực trong việc chỉ đạo các địa phương thực hiện và quan tâm đến lĩnh vực PIM.

- VNPIM cần thiết có sự hỗ trợ về các mặt (kể cả tài chính, kinh nghiệm …) của INPIM, các tổ chức quốc tế thông qua các chương trình hoạt động có liên quan đến PIM.

- Có kế hoạch đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ ngành, cấp kể cả cán bộ công nhân trực tiếp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, nông dân thông qua đào tạo nhằm nâng cao nhận thức khắc phục tư tưởng trì trệ, năng lực yếu kém của cán bộ, kỹ năng, kỹ thuật, các hiểu biết về cơ chế, chính sách của người sử dụng nước.

- Để thống nhất thực hiện chương trình PIM đúng mục đích cần tạo cơ chế để VNPIM tham gia quá trình thẩm định dự án đầu tư, để đề xuất các nội dung về PIM, IMT thuộc dự án, nhằm giúp cho việc phê duyệt dự án có nội dung về PIM. Các tổ chức quốc tế NGOs có quy chế phối hợp với VNPIM để thực hiện dự án đầu tư có vai trò PIM.

Bộ Nông nghiệp và PTNT quan tâm chỉ đạo các địa phương phải thực hiện chủ trương về PIM. Tổ chức mạng lưới PIM khép kín từ Trung ương đến địa phương, PIM phải được ràng buộc từ khâu đầu tư vốn ngay từ khi lập dự án, xét duyệt, thực hiện dự án bao gồm cả dự án đầu tư mới, nâng cấp khôi phục... có cơ chế phân công phân cấp đầu tư xây dựng đảm bảo công trình hoàn chỉnh, đồng bộ, khép kín là cơ sở phát triển PIM bền vững trong các dự án.

- VNPIM căn cứ vào khung chiến lược PIM để vạch ra chương trình, hoạt động của mình để thực hiện PIM một cách hiệu quả nhất.

6. Kết luận.

- PIM là hiệu quả, nhưng PIM có thể phát triển chỉ khi đã có một cơ chế chính sách toàn diện về PIM, về IMT được người dân ủng hộ, được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo.

- Người dân có thể quản lý được công trình thuỷ lợi kể cả công trình có kỹ thuật phức tạp một cách hiệu quả chỉ khi họ được giao quyền quản lý thông qua tổ chức của họ lập ra, được hướng dẫn, đào tạo và có cơ chế chính sách phù hợp tác động.

- VNPIM chỉ tồn tại và hoạt động có hiệu quả, làm tốt chức năng tham mưu về lĩnh vực PIM, IMT chỉ khi có sự quan tâm chỉ đạo của Bộ NN & PTNT và nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan liên quan, các tổ chức quốc tế về các mặt (kể cả tài chính, kinh nghiệm, đào tạo nâng cao năng lực).

Ghi chú : PIM           Tham gia quản lý tưới

                IMT             Chuyển giao quản lý tưới cho người dân

                HTDN         Hợp tác dùng nước

                HTXDN       Hợp tác xã dùng nước

                HDN            Hội dùng nước

                HTXNN      Hợp tác xã nông nghiệp ./.

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o