Cần hài hòa các mục tiêu phát điện và giảm nhẹ lũ
BBT. Đầu tháng11 này, GS.TSKH. Phạm Hồng Giang, Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước VN (VNCOLD) đã trao đổi với PV báo Tuổi Trẻ về những trận lũ lớn và tác dụng của hồ chứa tại miền Trung gần đây. Cho đến gần đây, dư luận vẫn tiếp tục quan tâm đến chủ đề này. PV báo Công Thương đã gặp GS.TSKH. Phạm Hồng Giang, Chủ tịch VNCOLD. Dưới đây là nội dung trao đổi tại cuộc găp đó.
Bên cạnh rất nhiều ý kiến ủng hộ vai trò quan trọng của các công trình thủy điện trong việc cung cấp điện phục vụ nhu cầu xã hội, vừa qua đã có khá nhiều ý kiến lo ngại khi cho rằng các hồ thủy điện có thể xả lũ, góp phần gây lũ lớn ở miền hạ du. Bên cạnh đó còn nhiều nỗi băn khoăn về việc xây dựng hàng loạt hồ thủy điện có thể gây ra những biến đổi không có lợi về môi trường. Để bạn đọc có thêm thông tin một cách khách quan, PV Báo Công Thương đã có cuộc phỏng vấn GS.TSKH. Phạm Hồng Giang, Phó Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam, Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam về vấn đề này.
Thời gian qua, có một số thông tin lo lắng việc xây dựng nhiều công trình thủy điện có thể góp phần gây lũ lụt, làm ảnh hưởng môi trường. Ông có ý kiến gì về vấn đề này?.
GS. Phạm Hồng Giang: Hiện nay cả nước có tới hơn 800 công trình thủy điện nhỏ và vừa, trong đó riêng miền trung có khoảng 335 dự án.
Có thể khẳng định việc xây dựng các đập trong đó có các đập thủy điện đã đem lại nhiều lợi ích. Đập tạo ra hồ chứa có tác dụng điều hòa nguồn nước, đặc biệt quan trọng đối với những nước có lượng mưa và dòng chảy về mùa lũ và mùa khô quá chênh lệch như nước ta. Điều hòa nguồn nước để giảm nhẹ lũ trong mùa mưa và cấp nước cho mọi hoạt động dân sinh - kinh tế trong mùa khô. Hồ chứa còn góp phần phát triển thủy sản, cải thiện môi trường và khí hậu tại địa phương. Ở hồ chứa có sự chênh lệch giữa mức nước trước và sau đập tạo ra nguồn thủy năng để phát điện. Ngoài những hồ chứa đa mục tiêu, còn có các hồ chứa chủ yếu chỉ nhằm một vài mục tiêu, chẳng hạn như phát điện. Đó là các hồ thủy điện. Tuy nhiên, hồ chứa cũng có mặt trái của nó như làm ngập đất đai với việc tổ chức tái định cư khá phức tạp. Hồ chứa làm thay đổi dòng chảy, trong đó có lượng phù sa, cản trở vận động và sinh sản tự nhiên của một số loài cá… Đương nhiên, sự hình thành hồ chứa tạo ra những biến đổi về điều kiện tự nhiên. Có tác giả Nhật Bản đã gửi một báo cáo khoa học tham dự Hội nghị Đập lớn Thế giới được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2010 giới thiệu kết quả nghiên cứu diễn biến của các đàn chim ưng trong vùng xây dựng đập. Ngoài ra, đảm bảo an toàn hồ chứa còn đòi hỏi các biện pháp kỹ thuật hết sức nghiêm ngặt. Việc vận hành hồ bất kể hậu quả ở hạ du có thể gây những thiệt hại lớn. Những vấn đề nói trên cần được nghiên cứu và xem xét kỹ khi quyết định xây dựng và quản lý đập, thể hiện tại đồ án kỹ thuật xây dựng và qui trinh vận hành đập.
Thủy điện là loại năng lượng “sạch”, tái tạo và có thể kết hợp với việc điều hòa nguồn nước. Hầu như không nước nào trên thế giới có nguồn thủy năng mà không tìm cách khai thác. Một số nước phát triển đã tận dụng hết nguồn thủy năng từ giữa thế kỷ trước. Không thể nói “thủy điện” gây ra lũ lụt. Hồ thủy điện, cũng như các loại hồ chứa khác, sẽ làm tăng lũ ở hạ du chỉ khi hồ đã đầy nước và không có khả năng điều tiết, lại đúng lúc lũ về mà xả nước cho vơi hồ thì đã làm tăng lũ. Nếu chỉ lũ tự nhiên chảy về hạ du, nước trong hồ vẫn giữ nguyên thì hồ không ảnh hưởng gì đến lũ. Nếu lúc lũ về mà mức nước trong hồ thấp, một phần lũ được trữ lại trong hồ thì hồ đã góp phần giảm nhẹ lũ.
Nhân đây tôi cũng xin lưu ý đến nguy cơ lũ “nhân tạo” đối với dòng chảy trên hệ thống sông Hồng. Trên thượng nguồn sông Hồng, sông Đà, sông Lô,.. Trung Quốc đã xây dựng khá nhiều hồ thủy điện, kể cả ở những vị trí rất gần biên giới phía Bắc nước ta. Việc vận hành các hồ này chỉ nhằm khai thác tối đa nguồn thủy năng và chắc chắn không đặt dung tích phòng lũ cho hạ du. Khi lũ lớn, lũ sẽ chuyển hết về hạ du và có thể còn xả thêm một lượng nước hồ để giữ an toàn cho hồ. Chúng ta cần tính toán kiểm tra lũ cho phù hợp để đảm bảo an toàn các hồ chứa và vùng đồng bằng hạ du của chúng ta trong những tình huống đó.
Trở lại thuỷ điện miền Trung. Do đặc điểm địa hình rất hẹp và dốc, nên không thể đắp đê. Công trình phòng tránh lũ ở miền Trung chủ yếu là các hồ điều tiết. Miền Trung là nơi phải chịu nhiều cơn bão lớn rồi kèm theo lũ. Sau lũ lại có thể hạn ngay, nhất là hiện nay, rừng thượng nguồn đã bị xâm hại nghiêm trọng. Vì vậy, qui trình vận hành các hồ thủy điện lớn ở miền Trung cần chú trọng đúng mức đến nhiệm vụ giảm nhẹ lũ. Có thể nảy sinh mâu thuẫn do hồ chứa phải đáp ứng các nhiệm vụ khác nhau. Chẳng hạn, muốn có nhiều điện năng thì phải giữ mức nước cao trong hồ, nhưng muốn giảm lũ thì đầu mùa lũ phải hạ mực nước hồ để khi nước về có thể “nhốt” được lũ trong hồ. Tất nhiên, khả năng tham gia chống lũ còn tùy thuộc dung tích của hồ, bởi lẽ, chỉ những hồ có dung tích lớn, hàng trăm triệu m3, mới có khả năng trữ nước đáng kể, đủ cắt được đỉnh lũ. Những hồ nhỏ và vừa thì khả năng chống lũ rất hạn chế nên hầu như không đặt ra nhiệm vụ này.
Có nhiều ý kiến cho rằng một số trận lũ ở miền Trung vừa qua có sự góp phần của “lũ nhân tạo” do việc xả lũ trong lũ. Ông có ý kiền gì về vấn đề này?
GS. Phạm Hồng Giang: Như đã đề cập ở trên, “lũ nhân tạo” là “lũ” do một lượng nước vốn có trong hồ được xả xuống hạ du cùng với lũ tự nhiên. Để nhận định rằng vừa qua ở miền Trung có “lũ nhân tạo” hay không thì phải dựa trên kết quả khảo sát và phân tích với minh chứng cụ thể. Tuy nhiên, khi đã đạt tới mực nước gia cường mà lũ về thì chắc chắn phải xả lũ để bảo vệ đập.
Các đoàn kiểm tra các hồ thủy điện bị “nghi can” trong một số trận lũ vừa qua đều kết luận là các hồ đã được vận hành đúng quy trình. Trong khi dư luận vẫn băn khoăn về chuyện xả lũ của hồ thủy điện. Vậy có điều gì chưa ổn trong việc xây dựng quy trình vận hành không, thưa ông?
GS. Phạm Hồng Giang: Với các hồ khác thì tôi không rõ, nhưng riêng hồ Hòa Bình hiện nay đã có qui trình vận hành được Chính phủ phê duyệt và nhiệm vụ chống lũ của hồ được chỉ đạo tương đối chặt chẽ. An toàn của đập Hòa Bình cũng được Hội đồng liên ngành theo dõi, đánh giá hàng năm. Vì vậy mà nhiều năm qua hồ Hoà Bình đã làm rất tốt nhiệm vụ cắt lũ cho hạ du. Điều đó chứng tỏ nếu có quy trình vận hành hợp lý và được thực hiện nghiêm túc thì các nhiệm vụ phát điện và chống lũ sẽ hài hòa, đạt hiệu quả cao.
Nếu các hồ thủy điện khác cũng đã có qui trình và thực tế đã vận hành đúng qui trình, song kết quả lại chưa phù hợp thì cần kiểm tra lại xem qui trình đó có chỗ nào cần phải được bổ khuyết thêm.
Ông có ý kiến gì xung quanh vấn đề môi trường với việc xây dựng hồ thủy điện?
GS. Phạm Hồng Giang: Cuộc sống gắn bó và tồn tại trong môi trường đồng thời cũng làm thay đổi môi trường. Nhiều ý kiến cho rằng phải giữ môi trường như nó vốn có trước đây và mọi thay đổi về môi trường đều là xấu. Cuộc sống phát triển thì môi trường cũng có những sự thay đổi theo. Chúng ta không sống như thời tiền sử và vì vậy không thể duy trì môi trường như thời đó. Môi trường phục vụ cuộc sống và phải được phát triển bền vững. Như tôi đã nêu ở trên, thủy điện được coi là nguồn năng lượng “sạch”, lại là loại năng lượng tái tạo nên nếu chậm khai thác thì tức là đã bỏ phí theo thời gian.
Không thể nói thủy điện làm hại môi trường. Hồ thủy điện, cũng như các hồ chứa khác, có những tác động nhất định đến tự nhiên và tạo nên một cân bằng mới về tự nhiên trong phạm vi nào đó. Như đã nói ở trên, có nhiều tác động tốt song khó tránh khỏi những tác động không tốt. Người ta đã và đang áp dụng những biện pháp để hạn chế những tác động không tốt. Chẳng hạn như, người ta làm những đường riêng cho cá bơi ngược dòng qua đập lên thượng nguồn. Việc nạo vét phù sa trầm lắng trong hồ và chuyển xuống hạ du không phải là điều quá khó đối với trình độ kỹ thuật hiện nay. Việc giảm lượng phù sa ở hạ du hồ thường gây ra những mối lo ngại. Tuy nhiên, cá biệt có đập Tiểu Lãng Để (Xiaolangdi) rất lớn trên sông Hoàng (tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) lại có nhiệm vụ không chỉ trữ nước mà còn phải trữ cả phù sa trong hồ để hạn chế bồi lắng lòng sông ở hạ du,
Với tư cách là chủ tịch Hội Đập lớn, ông cho rằng vấn đề gì là quan trọng trong việc xây dựng và vận hành hồ thủy điện
GS. Phạm Hồng Giang: Phát triển thủy điện là việc cần phải làm và tranh thủ làm sớm khi có đủ điều kiện. Đối với các hồ thủy điện lớn ở nước ta, khi xem xét dự án và qui trình vận hành, nhất thiết phải xem xét kỹ 2 mục tiêu chính: phát điện và chống lũ. Phát điện đem lợi ích trực tiếp đến cho chủ đầu tư còn chống lũ mang lại lợi ích lớn cho xã hội. Để hài hòa 2 mục tiêu này, phải có những qui định chặt chẽ về pháp lý của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Dự báo thủy văn chính xác, kịp thời cũng rất quan trọng để vận hành hồ thật hiệu quả. Khi xây dựng thủy điện cần có sự giám sát chặt chẽ để nghiêm cấm lợi dụng làm thủy điện để phá rừng.
Xin cảm ơn GS.
Ngọc Loan (thực hiện)
|