Nguy cơ từ những công trình ở thượng nguồn sông Mêkông
Dư luận trong và ngoài nước ngày càng lo ngại về tác động từ các công trình trên thượng nguồn sông Mêkông. GS. TSKH. Phạm Hồng Giang, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng VN, Chủ tịch Hội Đập lớn VN, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban sông Mêkông VN đã có cuộc trao đổi ý kiến với PV Khánh Lê, tạp chí Người Đô thị, về chủ đề này.
Xin ông cho biết đôi nét về các công trình trên thượng nguồn sông Mekong hiện nay.
Thượng nguồn sông Mekong ở trong lãnh thổ Trung Quốc (TQ) được gọi là sông Lan Ciang (Lan Thương). Bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (có độ cao khoảng 5000m so với mặt nước biển) nhưng phần lớn lưu vực nằm trong tỉnh Vân Nam. Khi đến lãnh thổ Lào và Thái Lan, cao trình đáy sông chỉ còn khoảng 400m nên ở thượng nguồn sông có độ dốc lớn. Tiềm năng thuỷ điện sông Mekong phần lớn ở đó. Khai thác thủy điện và khoáng sản là hai thế mạnh của tỉnh Vân Nam (TQ). Chương trình phát triển thủy điện vùng thượng nguồn sông Mekong không phải là chuyện mới. Nó đã được chuẩn bị và triển khai từ lâu và dư luận trong vùng cũng như trên thế giới đã lên tiếng hơn 10 năm nay (trang tin điện tử - www.vncold.vn – của Hội Đập lớn VN đã đăng nhiều bài về chủ đề này). Chương trình có 15 đập thủy điện lớn trên dòng chính, đã và đang xây dựng chừng một nửa, trong đó có các đập rất lớn đã xong như Xiaowan (cao 292m, công suất thủy điện 4200MW, dung tích hồ hơn 15 tỷ m3), Nuozhadu (cao 260m, công suất thủy điện 5500MW, dung tích hồ gần 23 tỷ m3),… Đối với số đập còn lại, tuy chưa bắt tay xây dựng nhưng cũng đã thiết kế xong.Tổng lượng nước trữ trong các hồ nói trên vào khoảng 55 tỷ m3. Tổng cống suất các nhà máy thủy điện khoảng 24GW.
Mấy năm trước đã hoàn thành dự án phá một số ghềnh thác trên dòng chính từ TQ đến Lào để mở rộng tuyến giao thông thủy từ vùng sâu phía tây nam TQ xuống các nước Đông Nam Á.
|
Bản đồ lưu vực Mekong . |
Ngoài ra, để tăng lượng nước chuyển từ sông Dương Tử lên phía Bắc đang thiếu nước nghiêm trọng, TQ đang triển khai hệ thống kênh lớn với qui mô không kém “Vạn Lý trường thành”. Có nhiều đề xuất cần lấy bổ sung thêm nước sông Lan Thương để chuyển lên phía Bắc. Việc này không khó vì ở vùng thượng nguồn, hai sông Lan Thương và Dương Tử rất gần nhau, có nơi chỉ khoảng mấy chục km. Để đưa nước sông Lan Thương sang sông Dương Tử cần đào đường hầm nối hai sông ấy mà phương tiện kỹ thuật hiện nay có thể giải quyết tương đối dễ dàng.
Theo ông, việc xây dựng đập và các công trình khác trên sông Mekong của TQ có ảnh hưởng như thế nào đến các nước trong vùng?
Điều đáng quan ngại thứ nhất là vì mục tiêu tăng lợi ích phát điện trên thượng nguồn mà sẽ có nhiều lúc không giúp điều tiết nguồn nước ở hạ du, trái lại còn có thể làm cho lũ và khô kiệt ở hạ du gay gắt thêm. Nếu các đập ở thượng nguồn xả cùng lúc với lũ tự nhiên thì lũ có tính nhân tạo sẽ cao hơn rất nhiều.
Thứ hai là tác động xấu đến môi trường ở hạ du. Những đập chắn ngang dòng chính tạo ra những biến đổi về lượng phù sa, những tổn thất về đa dạng sinh học, nhất là thủy sản, đe dọa nguồn sống của hàng chục triệu ngư dân các nước ven sông. Hơn nữa, nếu nước về hạ du có lẫn cả nước thải công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp khai khoáng (mà tỉnh Vân Nam TQ rất giàu khoáng sản), thì tổn thất ở hạ du không lường được.
Thứ ba là tác động đến dòng chảy. Những ghềnh thác bị phá đi mà lưu lượng nước được duy trì thích đáng thì góp phần cải thiện giao thông thủy nhưng sẽ làm cho lũ thượng nguồn xả xuống về hạ du nhanh hơn và về mùa khô, nếu ít nước từ thượng nguồn thì sông cạn cũng nhanh hơn.
Thứ tư là nếu nước sông Mekong bị chuyển sang lưu vực khác thì chắc chắn tình trạng thiếu nước ở hạ du sẽ rất nghiêm trọng, nhất là về mùa khô.
Còn mức độ ảnh hưởng với riêng Việt Nam, thưa ông?
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở cuối nguồn, tương đối xa thượng nguồn ở tỉnh Vân nam TQ. Trong toàn bộ lưu vực sông Mekong, phần thuộc lãnh thổ TQ chỉ chiếm 18% nên những biến động trên thượng nguồn tác động tới ĐBSCL không trực tiếp như là tới Thái Lan và Lào. Tuy nhiên việc một quốc gia ven sông tự ý xây dựng những công trình trên dòng chính, lấy nước của dòng chính tạo ra tiền lệ không tốt cho toàn lưu vực.Nếu tất cả các quốc gia ven sông đều hành động như vậy thì chẳng những sẽ gây tổn hại chung mà tổn hại riêng cho chính mình. Lào đang cần phát triển thuỷ điện, Thái Lan muốn lấy nước vào vùng đông bắc rồi chuyển nước xuống lưu vực sông Chao Phraya ở phía nam, Cămpuchia dự định tăng vụ và tăng diện tích tưới trong mùa khô. Sông Mekong sẽ cạn nước. Trong tình huống xấu đó, ĐBSCL sẽ phải gánh hậu quả nặng nề nhất do ở cuối nguồn. Nguy cơ lớn nhất là thiếu nước trong mùa khô. Lại thêm tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng nên mặn thâm nhập sâu trên toàn vùng đồng bằng. Nếu điều này xảy ra thì ĐBSCL sẽ không còn là vùng đồng bằng trù phú nữa mà trở thành hoang mạc cằn cỗi.
Vậy theo ông phải có những giải pháp gì để bảo đảm quyền lợi cũng như sự an toàn đối với các nước thuộc vùng sông Mekong nói chung và Việt Nam nói riêng?
Lợi ích của các cộng đồng dân cư ven sông từ thượng nguồn đến hạ nguồn thường khác nhau, thậm chí xung đột. Vì vậy cần phải có sự bàn bạc để đảm bảo hài hoà các lợi ích đó. Nếu lưu vực trong phạm vi một quốc gia thì chính phủ có trách nhiệm điều hoà các lợi ích. Khi lưu vực trải ra ở nhiều quốc gia thì cần phải có một tổ chức của các quốc gia đó chịu trách nhiệm quản lý chung lưu vực. Ở một số sông quốc tế, như sông Danube có dòng chính chảy qua 10 nước (Đức, Áo, Slovakia, Hungary, Croatia, Serbia, Romania, Bulgaria, Moldova và Ukraina) và lưu vực còn có những phần thuộc 9 nước khác nữa (Italia, Ba Lan, Thụy Sĩ, Séc, Slovenia, Bosnia & Herzegovina, Macedonia và Albania) ở Trung và Nam Âu, đã có cơ quan điều phối lợi ích trong toàn lưu vực.
Châu Âu đã vậy, còn vùng sông Mekong thì đến bao giờ?
Sông Mekong chưa đạt được điều đó. Từ những năm 70 có Uỷ hội sông Mekong do LHQ tổ chức. Đến năm 1995, bốn nước hạ du là Thái Lan, Lào, Cămpuchia và Việt Nam ký Hiệp định tại Chiang Rai (Thái Lan) với mục đích hợp tác trao đổi thông tin và phối hợp duy trì dòng chảy, môi trường sông Mekong. TQ không tham gia vì không muốn có sự ràng buộc nào đó mà theo họ thì sông chỉ thuộc chủ quyền quốc gia mà không có khái niệm sông quốc tế.
Vậy khi nào sẽ có một cơ quan điều phối giữa các nước khai thác sông Mekong, thưa ông?
Đã có khá nhiều Hội thảo về các lưu vực sông quốc tế nhưng tất cả mới chỉ dừng ở việc giới thiệu kinh nghiệm, ra lời kêu gọi, mà chưa đi đến những quyết định có tính pháp lý đối với các quốc gia. Chẳng hạn như tại Diễn đàn toàn cầu về nước (Global Water Forum) ở Bonn (CHLB Đức) năm 1998 mà một trong những người chủ trì là bà Angela Merkel, lúc đó là Bộ trưởng và nay là Thủ tướng CHLB Đức, sau khi trình bày các mô hình phối hợp quản lý sông liên quốc gia, người ta đã ra lời kêu gọi rất hay là “ Hãy để cho nước không phải là tiềm ẩn của xung đột mà là tác nhân của hòa bình và hợp tác”. Song mọi việc cũng chỉ đạt được đến đó! Mọi người trông đợi các tổ chức quốc tế lớn, đặc biệt là Liên Hợp Quốc, có sự quan tâm nhiều hơn và những nỗ lực mạnh mẽ hơn nhằm ban hành văn bản pháp lý về các lưu vực sông quốc tế.
Để chủ động đối phó với những nguy cơ từ thượng nguồn, cần có giải pháp gì đối với ĐBSCL?
Như tôi đã nêu ở trên, ĐBSCL của nước ta ở cuối nguồn, chịu tác động của tất cả những biến động của thượng nguồn, đồng thời với còn chịu tác động từ phía biển do biến đổi khí hậu. Chủ động đối phó với những nguy cơ ấy là việc không thể coi nhẹ và phải chuẩn bị sớm. Giải pháp thủy lợi là xây dựng các công trình ở vùng cửa sông nhằm giữ nước ngọt, ngăn mặn trong mùa khô. Nước ngọt được giữ và trữ trong hệ thống sông và kênh rạch. Hiện nay, đã có một số cống đập ngăn mặn ở cuối kênh thông ra biển và ở cửa sông Ba Lai, một trong chín cửa sông Cửu Long. Những cống đập khác ở các cửa sông lớn, đương nhiên, sẽ có qui mô rất lớn, lớn hơn những công trình khổng lồ vốn rất nổi tiếng như tại cửa sông Rhein ở Hà Lan. Công việc chuẩn bị và xây dựng những công trình đó cần đến thời gian của nhiều thập kỷ.
Xin cảm ơn ông!
|