ĐÊ ĐIỀU - GIẢI PHÁP AN TOÀN TRƯỚC MÙA MƯA LŨ
KSCC. Phạm Đăng Ấp
Đê điều (gồm đê, kè, cống) là công trình mang tính chất an toàn quốc gia, thực thi nhiệm vụ bảo vệ mùa màng, giao thông, kinh tế, tài sản của Nhà nước và tính mạng của nhân dân trong mùa mưa bão. Quan trọng là vậy nhưng chúng lại nằm ở ngòai trời, luôn luôn bị tác động phá hoại của thiên nhiên (mưa, gió, bão lũ..) của động vật (chuột, cày, cáo..), của côn trùng (mối, kiến..), của dòng chảy và của con người (đào, xẻ, khoan, chất tải, nổ mìn,..).
Những tác động này luôn luôn diễn ra ngài ý muốn chủ quan của chúng ta, rất khó kiểm soát, thường tiềm ẩn ở bên trong, chờ khi có lũ bão lớn mới xuất hiện và bộc lộ ra ngoài, khiến chúng ta luôn ở trong tình trạng bị động đối phó, đôi khi hậu quả khó lường.
Tuy nhiên kế thừa kinh nghiệm của những thế hệ trước cùng với những bài học đúc rút được trong sự nghiệp phòng chống lụt bão, chúng ta vẫn có thể dự báo, làm trước được những việc có thể làm được nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu những sự cố bất lợi có thể xảy ra trong mùa mưa lũ, đó là những việc sau đây:
1. Cần kiểm tra và xử lý ngay những hư hỏng của kè trên các tuyến đê sông bởi lẽ thời điểm này chính là lúc kiểm tra tốt nhất vì nước sông xuống kiệt, mọi hư hỏng của kè thường được bộ lộ rõ, chúng ta có thể quan sát thấy được. Từ đó có thể bổ sung, xử lý ngay không để đến lúc có lũ bão xảy ra sự cố mới ứng cứu sẽ rất tốn kém, lãng phí, khó đạt yêu cầu kỹ thuật.
2. Cần kiểm tra tất cả những tuyến đê chống lũ, thống kê những chỗ, những đoạn chưa có cơ đê; chân đê phía sông không có bãi để có thể cắm cừ, thả bao tải đất ra phía sông thì nên có kế hoạch đắp lấp, tạo cơ, bãi càng sớm càng tốt bởi những lý do sau:
- Một là: cơ đê phía sông có tác dụng làm tăng sự ổn định, phòng ngừa sạt trượt mái (phía sông) khi bị lũ ngâm lâu ngày và có sóng lớn.
- Hai là: có bãi sông là có điều kiện rất cơ bản và thuận lợi để thực hiện phương án xử lý cuối cùng khi đã xử lý sự cố về thân đê hoặc nền đê mà không có hiệu quả. Đó là biện pháp cắm cừ thả bao tải đất và đất hòn mở rộng thân đê ra phía sông theo nguyên tắc “thượng bịt hạ thoát” để cứu đê có hiệu quả nhất.
Bài học đau xót để vỡ đê do không có bãi phía sông trong lũ tháng 8/1971 đoạn Trạch Mỹ Lộc thuộc đê tả Tích, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
Bài học quý giá giữa đê không vỡ do có bãi phía sông trong lũ tháng 8/1969 ở đoạn Cáp Điền thuộc hữu sông Thái Bình, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh; Trong lũ tháng 8/1971 ở đoạn Tráng Việt thuộc tả sông Hồng huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Cần kiểm tra, phát hiện và xử lý ngay những chỗ gọi là: “cửa sổ địa chất” nằm ở 02 bên chân đê phía sông và phía đồng (từ chân đê ra ít nhất khoảng 50,0m). “Cửa sổ địa chất” bao gồm cả kênh mương, thùng đào, thùng đấu, hồ ao, giếng nước, hố khoan địa chất - đó là những nơi mà khi có lũ cao chúng được ăn thông và tạo thành dòng thấm dưới nền đê gây ra mạch đùn, mạch sủi, lỗ phụt ở chân đê phía đồng rất nguy hiểm, dễ dẫn đến sự cố vỡ đê. Vỡ đê Nhất Trai hữu sông Thái Bình trong lũ 1971, vỡ đê hữu Hồng Vân Cốc, Hà Tây trong lũ 1986 là bài học không kiểm tra xử lý “cửa sổ địa chất” trước mùa mưa lũ.
4. Cần kiểm tra tất cả các cống dưới đê, phát hiện xem những cống nào đã có và chưa có đập dâng về phía đồng thì cần nghiên cứu trước để không bị động trong mùa lũ vì lý do sau:
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng: Mọi sự cố của cống dưới đê về mùa lũ sẽ được xử lý “nhẹ nhàng” và hiệu quả cao khi có đập dâng phía đồng để giảm chênh lêch mực nước ở 02 phía trước và sau cống.
Cống Kim Đôi (cũ) ở đê hữu Cầu thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, những năm lũ lớn đều phát sinh mạch sủi nước đục ngay sân tiêu năng hạ lưu, nhưng sau khi làm đập dâng, hiện tượng này không còn nữa.
Cống Nội Doi cách cống Kim Đôi khoảng 1,0Km về phía hạ du, trong lũ 1986 bị sập vòm lấn vào 2/3 đê, ứng cứu ban đầu không có hiệu quả định chuyển sang phương án làm đập dâng phía đồng, nhưng địa hình không cho phép buộc phải đắp đê đá ra phía trước cống, nước sâu gặp nhiều khó khăn, tốn kém phấn đấu quyết liệt 03 ngày đêm mới giữ được đê không vỡ.
5. Cần kiểm tra và thống kê xem mỗi tuyến đê hiện còn bao nhiêu đoạn mái đê là mái kè? Cần phải có biện pháp đề phòng bất trắc vì những lý do sau:
- Đê sát sông thực chất là gia tải ngay trên đỉnh kè rất dễ gây lún nền và sạt trượt mái. Khi đã sạt trượt mái thì dòng chảy lũ trực tiếp uy hiếp ngay đến an toàn của đê gây bị động, xử lý hết sức khó khăn, phức tạp và tốn kém dễ dẫn đến vỡ đê.
- Theo kinh nghiệm của Trung Quốc đối với những đọan đê mái đê là mái kè cần xử lý theo 02 hướng:
a. Tốt nhất là có kế hoạch từng bước: “ Lăn đê trả bãi” tức là lùi đê vào trong đồng để có chiều rộng bãi tối thiểu 15,0~20,0m, phòng khi kè có bị sạt trược thì đê vẫn an toàn.
b. Những đoạn chưa thực hiện được việc “Lăn đê trả bãi” thì phải mở rộng thân đê, ít nhất về phía đồng gấp đôi chỗ khác để đề phòng bất trắc./.
(www.vncold.vn)
Các bài liên quan của cùng tác giả: Thư ngỏ: Về biện pháp phòng, chống, tránh lũ bão cho các tỉnh Miền Trung. Kinh nghiệm phòng chống lũ bão: mất cảnh giác bị bất ngờ ắt phải trả giá.
|