GÓP Ý VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
NGHỊ ĐỊNH 154/2007/NĐ-CP VỀ MIỄN THỦY LỢI PHÍ
Nguyễn Lê Phương
Cảnh đẹp nông thôn Bắc Bộ |
Ngày 29 tháng 11 năm 2007, tại Hà nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Bộ Tài chính đã phối hợp tổ chức hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Nghị định số 154/2007/NĐ-CP của Chính phủ ký ban hành ngày 15 tháng 10 năm 2007 về việc “ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 143/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi “ Nội dung của Nghị định qui định việc “miễn thủy lợi phí”(TLP) và “không miễn thủy lợi phí” đối với các đối tượng sử dụng nước từ công trình thủy lợi (TL)
Hầu hết các đại biểu tham dự hội nghị đều tỏ ý lo ngại về những trở ngại trong việc thực thi Nghị định, bởi lẽ đây là một chủ trương lớn, phức tạp, nhạy cảm, nội dung của nghị định lại đề cập chưa được rõ và lại phải thực hiện từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. nhưng cho đến nay ( 15 tháng 12 năm 2007 ) vẩn chưa có thông tư hướng dẫn cũ thể về các vướng mắc cần phải được thông suốt trước khi thực hiện, bao gồm các nội dung :
1, Miễn hoàn toàn, hay là chỉ miễn một phần thủy lợi phí ( TLP ) :
Theo Nghị định 154/2007/NĐ-CP của Chính phủ qui định thì chỉ miễn phần thủy lợi phí mà lâu nay nông dân đã trả ( theo mức qui định của Nghị định 143/2003/NĐ-CP ) cho tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi ( chủ yếu là Công ty Thủy nông ), Phần TLP mà nông dân đã trả “theo thỏa thuận để phục vụ cho hoạt động của tổ chức hợp tác dùng nước từ vị trí cống đầu kênh của hợp tác dùng nước đến mặt ruộng..” thì không được miễn và nông dân vẩn phải có nghĩa vụ trả cho tổ chức hợp tác dùng nước ( HTDN ).
Nói cách khác, những hệ thống công trình không do Công ty thủy nông quản lý, hoặc do tổ chức HTDN quản lý, nhưng không thu TLP theo mức qui định của Nghị định 143/2003/NĐ-CP thì không thuộc đối tượng được miễn TLP Như vậy Nhà nước không miễn hoàn toàn thủy lợi phí
Nhưng hầu hết người dân được nghe qua đài phát thanh, truyền hình, đọc báo..thì lại hiểu rằng Chính phủ đã quyết định miễn hoàn toàn TLP cho nông dân và từ nay trở đi nông dân không phải trả bất ký một khoản chi phí nào thuộc về tưới tiêu nước.
Điều này gây khó khăn cho hoạt động của các tổ chức hợp tác dùng nước, sẽ không thu được thủy lợi phí từ nông dân, nếu như không có những văn bản hướng dẫn, giải thích
2, UBND xã - Đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi:
Theo luật tài nguyên nước, pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (KT&BVCTTL) thì mỗi công trình thủy lợi phải có một tổ chức quản lý. Tùy theo nguồn vốn đầu tư, pháp lệnh KT&BVCTTL (điều 9 ) đã qui định chỉ có 3 tổ chức quản lý gồm : Doanh nghiệp nhà nước ( công ty thủy nông ), tổ chức hợp tác dùng nước, cá nhân .
Riêng tổ chức HTDN đã được xác định trong Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi ( đã được cũ thể hóa bằng thông tư hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và PTNT số 75/2004/TT-BNN ngày 20/4/2004 ) bao gồm các loại hình: “tổ hợp tác, hợp tác xã ( hợp tác xã nông nghiệp ), hội, hiệp hội” có làm dịch vụ tưới, tiêu, không có loại hình UBND xã
Tuy nhiên ở một số địa phương nông dân không có yêu cầu thành lập tổ chức HTXNN và chính quyền địa phương không cho thành lập tổ hợp tác, hội, hiệp hội dùng nước, nên việc quản lý công trình, dẫn nước trên địa bàn xã bị bỏ ngỏ. Trước tình hình đó nhiều nơi, UBND xã đã đảm nhận công việc “quản lý” công trình thủy lợi, thay cho tổ chức HTDN “, nhưng UBND xã chỉ làm nhiệm vụ ký hợp đồng dùng nước với công ty thủy nông, chỉ đạo thu thủy lợi phí để trả cho công ty thủy nông theo hợp đồng và hưởng tỷ lệ % TLP thu được theo thỏa thuận. Viêc giải quyết nước tưới trên địa bàn do nông dân tự lo , nên không hiệu quả ( ở Hà tĩnh nông dân thường nói châm biếm là “ toàn dân lo việc nước “ ). Và cũng vì vậy UBND xã không phải là tổ chức quản lý để “ được ngân sách nhà nước cấp bù số tiền do miễn thu thủy lợi phí…”( như Nghị định 154 qui định ). Trong trường hợp này nên qui định phải thành lập tổ chức HTDN thay thế cho UBND xã để đảm nhận việc tưới tiêu mới “được ngân sách nhà nước cấp bù số tiền do miễn thu thủy lợi phí” và mới thật sự làm tốt dịch vụ tưới, đem lại lợi ích cho nông dân
3, Mức miễn thu TLP :
Tại khoản a, mục 1, điều 1 của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP thì mức miễn TLP theo “qui định theo khung mức TLP”ghi ở điểm b,c và các mục 3,4,5 của điểm d khoản 1, điều 19 Nghị định số 143/2003/NĐ-CP. Riêng mức miễn TLP ở mục 5 thì thực chất không phải miễn TLP cho các hộ nông dân, mà lại là miễn TLP cho các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản. Vì vậy việc miễn TLP trong trường hợp này là chưa thỏa đáng, cần được xem xét khi thực hiện.
Mức thu TLP đối với lúa, qui định tại điều 19 của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP, được phân theo vùng và có mức sàn ( thấp nhất và mức cao nhất ).
Mức thu này được qui định không căn cứ vào yêu cầu chi phí mà chỉ căn cứ vào khả năng thực tế nông dân đã trả TLP trước đây và có sự ràng buộc là nếu địa phương nào qui định mức thu thấp thì ngân sách phải cấp bù nhiều và ngược lại, qui định mức thu cao thì ngân sách cấp bù ít ( thực tế hầu như không được cấp bù ) . Nhưng hầu hết các địa phương đều qui định ở mức thấp, nên không đáp ứng được yêu cầu chi phí cho quản lý công trình thủy lợi .
Theo tài liệu giải trình khi trình Chính phủ ban hành Nghị định 143/2003/NĐ-CP với mức thu này ( kể cả mức thu cao ) vẩn cần sự hỗ trợ rất lớn của ngân sách nhà nước . Mức ngân sách nhà nước cấp bù phần TLP được miễn ( mức của Nghị định 143 ) chỉ bằng 50-60 % yêu cầu chi phí hợp lý, Vì vậy ngoài phần ngân sách cấp bù số tiền miễn giảm TLP cho nông dân như qui định trên ( tương đương trên 1700 tỷ đồng/năm ) còn phải có thêm khoản cấp bù đủ số tiền đáp ứng cho yêu cầu sửa chữa, quản lý vận hành của các công ty thủy nông ( khoảng trên 1500 tỷ đồng/năm nữa ). Đó là chưa kế phần tài chính hỗ trợ khắc phục hư hỏng khi có thiên tai, nâng cấp, khôi phục và kể cả khi chuyển giao công trình cho nông dân quản lý. Vì vậy trước mắt căn cứ vào mức thu cao nhất của từng vùng ( đã ghi trong Nghị định 143/2003/NĐ-CP ) để làm căn cứ ngân sách cấp tiền TLP được miễn, nhưng về lâu dài các địa phương phải xây dựng định mức chi phí cũ thể cho từng địa bàn của từng địa phương để ngân sách cấp đủ chi phí yêu cầu
4, Cơ chế cấp tiền miễn thủy lợi phí :
Nhằm đảm bảo cấp đúng đối tượng, đủ số tiền thủy lợi phí được miễn cho các tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi thì khoản tiền được cấp phải công khai, bằng chỉ tiêu pháp lệnh ghi trong kế hoạch tài chính hàng năm của ngành tài chính, có văn bản thông báo chính thức, tránh tình trạng cửa quyền, tùy tiện của cơ quan quản lý tài chính, có bao nhiêu thi cấp bấy nhiêu, hoặc cắt xén phần kinh phí được cấp để sử dụng vào việc khác
Đối tượng được cấp phải là tổ chức quản lý có đủ tư cách pháp nhân được thành lập và hoạt động theo đúng pháp luật, nhằm đẩy mạnh việc thành lập các tổ chức HTDN, phát huy vai trò của tổ chức này
. Tuy số tiền này không lớn ( cấp cho công ty thủy nông phải đảm bảo trên 3000 tỷ đồng / năm ) nếu so với tổng ngân sách, nhưng để cấp đủ, đúng đối tượng không phải là dễ, nếu như
ngành tài chính không có một cơ chế cấp phát thống nhất, rõ ràng, chặt chẽ, công bằng
5, Cấp tiền miễn thủy lợi phí đối với công trình nhà nước giao cho dân quản lý:
Để đảm bảo công bằng và nâng cao vai trò của người dân trong việc quản lý khai thác công trình thủy lợi hiệu quả hơn, nhiều địa phương đã thực hiện tốt chủ trương của nhà nước về việc giao công trình có qui mô thích hợp cho nông dân quản lý ( điều 10 của Pháp lệnh KTvà BV công trình thủy lợi ), nhưng trong quá trình thực hiện chủ trương này đang gặp khó khăn về kinh phí.
Vì vậy, hướng dẫn thực hiện Nghị đinh 154 cần có những qui định cấp tiền miễn TLP đối với những địa phương đã thực hiện việc chuyển giao nói trên, ngân sách nhà nước cần cấp đủ phần kinh phí do miễn TLP trong phạm vi HTDN phụ trách, tránh tình trạng như lâu nay là giao công trình cho HTDN xong, được coi là Nhà nước hết trách nhiệm, dẫn đến thiếu vốn cho duy tu bảo dưỡng, công trình lại xuống cấp nhanh hơn, ảnh hưởng đến hiệu quả tưới tiêu..HTDN phải trả công trình đã được giao cho nhà nước quản lý
Cũng như nhiều địa phương khác, tỉnh Thái Bình đã thực hiện chủ trương này trong nhiều năm nay, riêng năm 2007 Tỉnh Thái Bình có kế hoạch chuyển toàn bộ 285 trạm bơm điện hiện do doanh nghiệp nhà nước quản lý, giao cho tổ chức HTDN ( là HTXNN ) quản lý. Đến thời điểm này Thái Bình đã giao được 217 trạm/285 trạm bơm điện cho các HTXNN, ( đạt trên 80%) nhưng đang gặp khó khăn về tài chính do chính sách miễn TLP ( vì Nghị định 154 /2007/NĐ-CP chưa có qui định cũ thể về vấn đề này). Đây cũng vấn đề bức xúc không phải chỉ riêng Thái Bình mà nhiều tỉnh khác đang gặp phải. Đề nghị ngành tài chính, nông nghiệp cần có văn bản hướng dẫn kịp thời để khuyến khích thực hiện chủ trương chuyển giao công trình cho nông dân quản lý một cách hiệu quả
6, Các giải pháp đồng bộ để thực hiện Nghị định 154/2003/NĐ-CP :
Lâu nay cán bộ và nông dân ở một số địa phương cho rằng : Nhà nước miễn TLP cho nông dân, có nghĩa là nhà nước đảm nhận toàn bộ việc quản lý và khai thác công trình thủy lợi từ đầu mối đến mặt ruộng, đảm bảo việc cấp nước đến ruộng cho các hộ nông dân. Vì vậy để việc miễn TLP đem lại hiệu qủa đúng với yêu cầu là dịch vụ tưới sẽ tốt hơn, tăng thu nhập cho nông dân thông qua tăng năng suất, sản lượng cây trồng, chi phí thấp..thì phải giải quyết đồng thời nhiều giải pháp ( ngoài giải pháp cấp đúng, đủ tiền miễn thủy lợi phí ), bao gồm: củng cố các công ty thủy nông gọn, nhẹ để phục vụ tốt hơn, thực hiện việc phân cấp quản lý công trình TL, tổ chức lại các tổ chức HTDN có sự tham gia của người dân, chuyển giao các công trình có qui mô thích hợp cho nông dân quản lý, từng bước xã hội hóa về thủy lợi, nhằm gắn được quyền lợi với trách nhiệm của nông dân trong việc quản lý khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn của họ một cách hiệu quả
Việc cấp kinh phí miễn TLP theo qui định của Nghị định 154, phải đồng thời với việc cấp kinh phí cho sửa chữa, nâng cấp, khôi phục các công trình thủy lợi đang xuống cấp, đẩy mạnh kiên cố hóa kênh mương, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào lĩnh vực tưới tiêu, tiết kiệm nước, giảm chi phí.., đồng thời tập trung đầu tư xây dựng công trình thủy lợi mới ở những vùng nghèo, khó khăn về tưới . Đầu tư kinh phí cho việc đào tạo, hướng dẫn, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao năng lực, hiểu biết cho cán bộ và người dân trong việc quản lý khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn của chính họ
Các ban, ngành liên quan ( nhất là Tài chính, Nông nghiệp ) ở địa phương và Trung ương theo chức năng tham mưu, giúp Chính phủ, chính quyền các cấp ban hành kịp thời các cơ chế chính sách phù hợp, hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện đồng thời các giải pháp nêu trên thì việc miễn TLP theo Nghị định 154 mới đem lại hiệu quả thật sự cho nông dân./.
(www.vncold.vn)